Connect with us

Chuyện làm ăn

Bà Phạm Chi Lan: ‘Doanh nghiệp trong nước sống khỏe, là chỉ dấu nội lực của nền kinh tế’

“Thấy những thương hiệu Việt bị bán đi, tôi đau lắm”. Đây là lời của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan khi trò chuyện với Nông thôn Việt.

Có lẽ đó không đơn giản là cảm thán gan ruột của một người đã miệt mài góp sức cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp (DN), mà nó còn cho thấy sự bất lực của DN, thiếu trách nhiệm nhà nước trong cuộc chiến bảo vệ thương hiệu Việt, trong bối cảnh những chủ trương chính sách bị tù đọng, thậm chí bị ngó lơ lẫn lãng quên, lòng tin bị đánh mất, bất bình đẳng chưa từng bị xóa bỏ. Một nền kinh tế được dẫn dắt bởi thị trường nhưng định hướng là của nhà nước, thì trách nhiệm đi liền với hành động của người điều hành, ban hành chính sách như cỗ xe song mã. Giải mã những bước chạy khá rõ ràng, cụ thể, nhịp nhàng, đặt niềm tin có cơ sở để không cần phải “mở đường máu” mà DN vẫn tự tin sinh tồn và phát triển, được bà chia sẻ từ cái nhìn vừa xa vừa gần của một người trong cuộc.

Doanh nghiệp nước ngoài: ngồi không mà hưởng lợi

Thời gian qua, các công ty như Nhựa Bình Minh, Ngọc Nghĩa, Duy Tân, Bao bì Biên Hòa… điện máy Nguyễn Kim, siêu thị Big C, siêu thị Lan Chi, MM Mega Market, Sabeco, Kem Dạ Lan, P/S; Diana; Viso; Phở 24; Bibica… bị các DN nước ngoài thâu tóm, nắm đa số cổ phần, cổ phiếu, chi phối và thu hàng tỷ USD từ những cỗ máy in tiền này. Không chỉ các tập đoàn lớn, nhiều quỹ đầu tư lớn của nước ngoài cũng đang đầu tư vào các cổ phiếu hàng đầu Việt Nam như: VCB, ACB, MWG, FPT, HPG, VRE, VNM…

Họ thâu tóm DN Việt khi thương hiệu, nguồn hàng, đối tượng tiêu dùng, cơ sở sản xuất lẫn thói quen mua sắm của người dùng đối với các thương hiệu này đã quá ổn định. Vì vậy, sau đó, họ chỉ cần tăng vốn, cấu trúc lại, mở rộng thị trường, khuếch trương thương hiệu, là xong. Bà có nghĩ là họ quá sung sướng không, khi “mâm bát” dọn sẵn, chỉ sắp xếp lại, thêm thắt chút đỉnh, là ăn?

Advertisement

Tôi rất ngại là trong thời gian vừa qua, tâm trạng chung của chủ DN là nhiều người nản muốn ra khỏi thị trường. Ai còn ý chí kinh doanh thì họ tạm ngừng lại để xem xét lại các vấn đề nảy sinh và tính toán tái cơ cấu. Có nhiều DN lựa chọn đóng cửa cơ sở hay ngành nghề kinh doanh cũ để bắt đầu lại từ đầu một công việc khác, hoặc khởi sự DN một cách khác theo tình hình thực tế. Nhưng mà như vậy nó đòi hỏi thời gian, công sức và tốn kém. Và nếu không tái cơ cấu được, không đủ chi phí nuôi nhân công, duy trì hoạt động thì họ chỉ còn cách buộc phải bán đi, đó là cái đau nội tại của DN.

Đau hơn nữa là việc mua bán sáp nhập với DN nước ngoài trong thời gian qua liên quan đến nhiều DN trong nước đã thành danh ở mức độ nhất định. Tuy chưa phải là các đại gia hàng đầu, nhưng các công ty đã bán cũng đã xây dựng được thị trường nội địa và xuất khẩu khá tốt, họ đã có hệ thống phân phối tương đối tốt, có thương hiệu được biết đến rộng rãi…

Qua sự việc hàng loạt công ty nhựa, nước giải khát, ngành hàng tiêu dùng, tài chính… bị Thái Lan thâu tóm mới đây cho thấy tầm nhìn của các nhà đầu tư nước ngoài. Họ thấy rằng mua lại của các DN Việt thì đã có sẵn bất động sản, cơ sở sản xuất, chế biến, phân phối, tiêu thụ, thuận lợi và nhanh hơn rất nhiều so với đầu tư mới ngay từ đầu vào Việt Nam. Chưa kể, thị trường ở Việt Nam có 100 triệu dân, và sức tiêu dùng thì tuy là vài năm gần đây có khó khăn từ Covid-19, nhưng mà mức tăng trưởng của thị trường nội địa Việt Nam vẫn vào loại khá so với các nước đang phát triển khác. Họ mua DN Việt Nam thì coi như có thể sản xuất và xuất khẩu hàng hóa ngay tại Việt Nam.

Không ít nhà đầu tư nước ngoài nhằm vào thị trường Việt Nam là nơi để tiêu thụ hàng cho họ. Một số hướng vào xuất khẩu thì lại tận dụng các thị trường mà Việt Nam kí FTA. Đặc biệt là đối với các nước giảm thuế xuất khẩu cho Việt Nam, chẳng hạn như 12 nước CPTPP (đã kí kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) hoặc các nước ASEAN. Như vậy, họ vừa được lợi thế tiêu thụ thị trường nội địa ở Việt Nam và cạnh tranh trong xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Việt cùng lĩnh vực.

Không phủ nhận dòng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam đem lại công việc làm, đóng thuế, tạo sản phẩm, kích thích sản xuất. Nhưng họ càng lớn mạnh, thì nguy cơ càng cao, khi DN Việt bị mất tên tuổi, hoặc có tiếng không có miếng, rỗng ruột. DN Việt bị thua trắng trên sân nhà, bị lâm cảnh “hồn Trương Ba, da hàng thịt”.

Advertisement

Đã bơi không nổi mà còn bị cột chân

Thưa bà, việc nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ nhưng chưa thực sự đến được tận tay DN, có phải là nguyên nhân các DN Việt buộc phải cầu cạnh nguồn lực từ nước ngoài?

Các vấn đề mà các DN Việt Nam gặp khó và không chống chịu được nữa, thì các DN nước ngoài lại có nhiều điều kiện thuận lợi để làm.

Các nhà đầu tư nước ngoài không bị những khó khăn tương tự như DN Việt Nam. Họ là các tập đoàn lớn, có nguồn vốn mạnh hàng tỷ đô-la. Ở Việt Nam, DN cùng lĩnh vực ấy mất rất nhiều thời gian để làm các thủ tục hành chính trong đầu tư, thì với các DN nước ngoài, quá trình làm thủ tục diễn ra nhanh hơn nhiều do có các chính sách ưu đãi và có sự “chiều chuộng” của các cơ quan liên quan. Các cơ quan nhà nước có tâm lý sợ các tập đoàn nước ngoài kiện vì không thực hiện các quy định, thông lệ quốc tế, nhưng chiều ngược lại, không sợ các DN trong nước khởi kiện. Điều này khiến cho các DN trong nước cùng lĩnh vực thất thế ngay trên sân nhà.

Rồi luật thay đổi liên tục, gây khó khăn cản trở, ví dụ như sự thay đổi của luật đất đai cũng khiến các DN Việt phải tính toán lại điều kiện giá cả thuê đất, nhà xưởng sản xuất, khai báo thuế và các thủ tục liên quan khác… khiến chi phí đội lên quá nhiều. DN lại gặp khó trong tiếp cận nguồn lực, ví dụ như vốn đầu tư – phát triển, khó trong tiếp cận những thủ tục hành chính bình thường cho các hoạt động kinh doanh.

Khó khăn chồng chất mà các DN Việt không tìm thấy lối thoát, họ muốn bán nhưng không có người mua, vì vậy họ quyết định bán cho nhà đầu tư nước ngoài là điều có thể hiểu được.

Advertisement

Tuy nhiên, điều tôi trăn trở là, khi các DN muốn bán gấp DN cho nước ngoài để nhanh chóng rút vốn về, thì họ làm gì tiếp sau đó? Không ít người dùng vốn đó lại tìm cách đầu tư ra nước ngoài, thành nhà đầu tư ra nước ngoài, không làm ở Việt Nam nữa. Bởi họ nhận thấy môi trường cạnh tranh trong nước không ổn chút nào cho DN Việt.

Đó là cái đáng tiếc vô cùng. Vì mình ra sức đi vận động đầu tư nước ngoài vào, rồi chiều chuộng đủ thứ với DN nước ngoài, mà lại có nhiều rào cản đối với DN trong nước, buộc chính những DN người Việt đáng lẽ là những người gắn bó nhất với đất nước quê hương, lăn lộn bao nhiêu năm trên thương trường lại phải rời mà đi theo cách bán lại như thế. Công sức họ đầu tư xây dựng bao nhiêu năm rốt cuộc để DN rơi vào tay nước ngoài một sớm một chiều. Tiếc nữa là DN nước ngoài sau đó tiếp nhận, quản lý, vận hành một cách thuận lợi trên những nền tảng sẵn có của DN Việt.

Như chúng ta thấy với trường hợp Tổng công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn. Năm đầu tiên sau khi mua lại tổng công ty này, tập đoàn Thái Lan đã có thể ngay lập tức tạo lãi lớn. Điều này đặt ra câu hỏi nếu DN Việt được hỗ trợ hiệu quả để vượt qua khó khăn, họ có thể tiếp tục phát triển tốt hay không?

Lòng tin ‘đi vắng’ thì cơ hội vững mạnh càng xa vời

Các DN chua chát, rằng muốn có ưu đãi như đã nghe nói thì hãy “lên ti-vi mà tìm”! Bất đình đẳng trong đối xử, đồng nghĩa là xem nhẹ, chưa nói là coi thường, khiến họ phải tìm “phao” để may ra còn sống. Đây có phải là một trong những lí do khiến DN thất bại, khi lòng tin từ những cam kết trở thành trò đùa không?

Như tôi nói rất nhiều lần rồi, tôi chỉ mong nhà nước đối xử với DN Việt Nam như đối xử với nhà đầu tư nước ngoài. Nghĩa là cũng được tôn trọng, cũng biết giữ những cam kết của mình, cũng thực hiện những ưu đãi cần thiết mà lâu nay chỉ dành cho các nhà đầu tư nước ngoài trong cùng lĩnh vực.

Advertisement

Và đặc biệt, phải có lòng tin đối với DN Việt.

Ví dụ những gói cam kết hỗ trợ kinh tế khó khăn như Covid-19 ấy, hiện nay các DN chỉ được hỗ trợ mấy chục phần trăm, và cũng rất ít DN tiếp cận được. Nhà nước hứa hẹn một gói rõ là to, nhiều tiền nhưng rốt cuộc tiền ngân sách vẫn giữ lại ở ngân sách, DN khó thì vẫn khó.

Việc nhà nước ưu tiên đầu tư công mà không đưa ra những cam kết thúc đẩy đầu tư cho khu vực tư nhân tương tự, cũng gây khó cho DN tư nhân. Như hiện nay nhà nước đang thúc đẩy một loạt các dự án hạ tầng nhưng đặt ra những điều kiện ngặt nghèo đối với khu vực tư; kêu gọi hợp tác công tư, nhưng điều này tôi nghĩ khó thực hiện được bởi các DN tư họ khó có thể tham gia đấu thầu một cách sòng phẳng được. Dù chúng ta biết rằng hiệu quả của nhiều dự án nhà nước làm đâu có bằng tư, kể cả các dự án làm hạ tầng, tuy nhiên vai trò của tư nhân trong các hoạt động này vẫn rất ít do những điều kiện đặt ra đối với họ vẫn còn khó khăn hơn nhiều so với DN nhà nước hay là so với nhà đầu tư nước ngoài.

Chúng ta hay nói về sự công bằng giữa các doanh nghiệp, nhưng đó thực ra là chuyện “tuyết rơi giữa mùa hè”, mà kẻ gánh chịu bất hợp lý nhất chính là DN nhỏ và vừa, trong khi lực lượng này chiếm giữ vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế hiện nay. Câu chuyện sức mạnh nội lực ở thực tế Việt Nam, khách quan mà nói, không phải nằm ở các “Thánh Gióng” mà chính là DN vừa và nhỏ. Không bảo vệ được họ thì sự rạn vỡ của bức tranh kinh tế sẽ nguy hơn, nhanh hơn khi những ông lớn bị đổ…

Tôi cho cái cơ bản nhất vẫn là phải làm sao tạo môi trường thuận lợi và công bằng cho các DN để cho họ làm ăn được. Trước hết ưu tiên hỗ trợ cho các DN nhỏ và vừa để họ đứng chân được. Chúng ta đừng coi thường các DN nhỏ và vừa, Việt Nam đang thiếu vắng hẳn những ngành công nghiệp phụ trợ cần thiết để tham gia được vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo được nhiều giá trị hơn cho Việt Nam. Cái này chỉ thực hiện được ở quy mô của DN nhỏ và vừa. Đừng để các DN nhỏ và vừa “chết hẳn” hoặc phải bán mình trong các thương vụ M&A nhiều như trong thời gian vừa qua.

Advertisement

Nếu buộc phải bán đi, chúng ta phải luôn tìm mọi cách để giải bài toán liên kết để DN nội địa tham gia vào các hoạt động của DN nước ngoài để học hỏi mà lớn lên, chứ không phải chỉ là tham gia ban đầu liên doanh mấy chục phần trăm nhưng theo thời gian cứ rơi rụng dần dần, với kết cục một trăm phần trăm cổ phần rơi vào tay nhà đầu tư nước ngoài.

Tôi cho rằng cái này mình phải học Trung Quốc. Trung Quốc bây giờ công nghệ lên biết bao nhiêu, các ngành công nghiệp phát triển lên biết bao nhiêu để đến Mỹ và tất cả các nước lớn khác trên thế giới đều phải e ngại. Đó là nhờ ngay từ đầu trong đầu tư nước ngoài, họ đã biết cách làm thế nào bảo vệ và tạo điều kiện cho các DN trong nước tham gia để học hỏi, để biến những sức mạnh từ bên ngoài thành sức mạnh của mình.

Vì DN của họ có nội lực. Muốn có thể tự chủ thì các DN phải không ngừng gia tăng nội lực của mình.

‘Bơm thuốc’ tái cơ cấu và nên ‘trong nhà sáp nhập với nhau

Có ý kiến cho rằng, nhà nước nên mua lại hoặc tạo điều kiện thuận lợi nhất để các DN trong nước thực hiện các thương vụ M&A với nhau, đây cũng là điều cần thiết để bảo vệ thương hiệu Việt?

Tôi nghĩ phương án nhà nước mua lại là rất khó. Nếu mua lại thì nhà nước vận hành như thế nào? Trước đây nhà nước đã từng mua lại ngân hàng 0 đồng đấy thôi, nhưng rốt cuộc có giải quyết được gì đâu? Vẫn là cả một khối nợ rất lớn để đấy.

Advertisement

Kể ra thì cách tốt nhất bây giờ là nếu nhà nước đã có tiền mua lại thì nhà nước có thể dành khoản đó cho DN vay tiền với lãi suất thấp, dài hạn, trợ giúp cho họ tái cơ cấu. Thứ hai nữa là nhà nước hoàn toàn có thể khuyến khích để các công ty khác của Việt Nam có nguồn lực tốt tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi nhanh chóng khi mua lại DN trong nước. Điều này sẽ góp phần để các DN trong nước không “quay xe” đi tìm nhà đầu tư nước ngoài để bán.

Tôi nghĩ là trong cùng ngành, trong cùng lĩnh vực, bao giờ cũng thế, có DN mạnh hơn có DN yếu hơn. DN mạnh hơn, nếu như có điều kiện họ mua lại DN cùng ngành để họ mở rộng ra, tăng quy mô sản xuất kinh doanh, có thêm sản phẩm mới hoặc là có thêm hệ thống tiêu thụ mà DN kia đang có và đang khó không sử dụng hết, không sử dụng được thì người ta có thể mua lại được.

Nếu DN trong nước có thể mua lại được, thì DN dù bị bán đi vẫn là của Việt Nam, hoặc Việt Nam liên doanh với nhau. Thực ra trong thời gian vừa qua chúng ta đã thấy có những trường hợp như Vinamilk chẳng hạn, mua lại công ty sữa Mộc Châu thì cũng vẫn vận hành rất tốt, vừa tăng quy mô sản xuất của Vinamilk. Nếu công ty sữa Mộc Châu khó khăn mà bán cho nước ngoài, thì chúng ta mất đi một tài sản, một dòng sản phẩm nội địa đã có thị trường tốt, tăng thêm sự cạnh tranh giữa các sản phẩm sữa trong nước.

Đây cũng là hoạt động mua bán sáp nhập, nhưng do DN Việt Nam thực hiện và nó khác hẳn so với tập đoàn nước ngoài mua lại. Cái đó thực sự là sáp nhập chứ không chỉ đơn thuần là mua lại của nhau, để cùng nhau làm, qua đó nâng giá trị doanh nghiệp Việt lên. Nếu bán đứt cho nước ngoài thì chúng ta mất đi một thương hiệu Việt trên thị trường.

Điều này cũng cần các DN có nhu cầu bán đi đăng ký với các cơ quan nhà nước, hoặc các kênh từ ngân hàng và chuyên gia cùng nhau đánh giá để có phương án hỗ trợ các DN trong nước ngồi lại với nhau để đưa ra giải pháp xử lý nội bộ. Bên cạnh đó, DN muốn bán thì nên chào bán một cách công khai, rộng rãi hơn là tự mình đi tìm đối tác để đàm phán riêng bởi như vậy DN sẽ ở vị thế kém hơn nhiều.

Advertisement

Việt Nam hiện nay quy mô kinh tế đứng khoảng thứ 35 trên thế giới, quy mô đâu có nhỏ. Tôi nghĩ với dân số trên 100 triệu dân, mức sống càng ngày càng được tăng lên, GDP tăng lên thì quy mô thị trường nội địa cũng tăng lên đáng kể để nuôi dưỡng lâu dài DN nhỏ và vừa trong nước. Họ có thể yên tâm làm ở thị trường nội địa trước khi hướng đến xuất khẩu. Ngay cả DN xuất khẩu cũng có thể có thêm thị trường trong nước để làm cả hai, chứ không chỉ dồn hết nguồn lực để xuất khẩu.

Nếu có thể chia sẻ tâm tư, thì bà gửi gắm gì cho các DN trong nước? 

Tôi chỉ mong là các DN giữ niềm tin của mình và nên rộng mở tìm kiếm thêm các nguồn hợp tác, liên kết nội địa để cùng nhau phát triển. Tôi mong là các cơ quan liên quan không phải chỉ nhà nước, mà còn các viện nghiên cứu, các trường đại học, các hiệp hội doanh nghiệp nữa… cùng nhau chung tay, quan sát doanh nghiệp nhiều hơn, chú ý theo dõi họ nhiều hơn kể cả đối với các DN đã tương đối trưởng thành nhưng hiện nay đang gặp khó khăn, để có thể kịp thời bàn bạc mà giúp đỡ họ. Tôi vẫn tin là có giải pháp để có thể giúp họ thay đổi tốt hơn mà không nhất thiết phải bán mình cho các DN nước ngoài. Dù sao, các DN trong nước, vượt qua khó khăn, tồn tại và sống khỏe chính là chỉ dấu nội lực của nền kinh tế Việt Nam.

Nguồn: Nông thôn Việt

Advertisement
Continue Reading
Advertisement
Bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyện làm ăn

GS. Nguyễn Mại: Phải có chính sách để FDI hợp tác với doanh nghiệp Việt thay vì để họ cạnh tranh

GS. Nguyễn Mại

Việt Nam đang thiếu chính sách kết nối theo chuỗi để doanh nghiệp tư nhân có thể bắt tay hợp tác thay vì bị cạnh tranh từ những ‘gã khổng lồ’ về vốn và công nghệ.

Mặc dù, khu vực kinh tế tư nhân hiện đang tạo ra khoảng 51% GDP của nền kinh tế, đóng góp khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút 85% lực lượng lao động, là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế.

Tuy nhiên, sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa được như kỳ vọng khi phần lớn vẫn là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ chưa cao. Trong bối cảnh kinh tế biến động, chịu tác động bởi các cú sốc từ bên ngoài, doanh nghiệp tư nhân càng dễ chịu tổn thương.

Vì vậy, phát triển kinh tế tư nhân càng trở thành nhiệm vụ quan trọng để khu vực này trở thành một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu của nền kinh tế và là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng.

Phân tích về những nguyên nhân khiến doanh nghiệp tư nhân chưa phát triển được như kỳ vọng, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với GS. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE).

Advertisement
Thưa ông, một số ý kiến cho rằng môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, doanh nghiệp tư nhân gặp tình trạng phân biệt đối xử về đất đai, vốn, thị trường và gặp bất lợi về thuế, hải quan so với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI dẫn đến khu vực này kém phát triển, ông đánh giá sao về quan điểm này?

Thay vì đánh giá các FDI đang lấn lướt doanh nghiệp tư nhân chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, Việt Nam đang thiếu chính sách kết nối theo chuỗi để doanh nghiệp tư nhân có thể bắt tay hợp tác thay vì bị cạnh tranh từ những “gã khổng lồ” về vốn và công nghệ.

Một trong những lợi ích khi thu hút các doanh nghiệp FDI đến đầu tư tại Việt Nam ngoài giải quyết bài toán lao động, tạo giá trị gia tăng còn có tác dụng lan toả đến các doanh nghiệp trong nước để cùng phát triển. Tác dụng lan toả của FDI hiện nay không phải là không có mà chưa thực sự như mong muốn bởi vì hiện nay chúng ta chưa có chính sách kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân.

Đáng lẽ ra, các doanh nghiệp FDI có vender là doanh nghiệp Việt Nam phải được hưởng ưu đãi cao hơn so với các doanh nghiệp mang vender của họ sang Việt Nam.Chúng tôi đã đề nghị nhiều lần với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và bây giờ là Bộ Tài chính nhưng đáng tiếc là hiện vẫn chưa có những chính sách như vậy.

Chúng ta phải tìm ra mô hình để doanh nghiệp FDI bắt buộc phải tạo cơ hội cho doanh nghiệp nội tham gia vào chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất của họ, đồng thời cũng để nâng dần trình độ của các doanh nghiệp trong nước.

Tập đoàn Samsung khi đầu tư vào Thái Nguyên và Bắc Ninh, thời gian đầu họ đã đưa 87 vender cấp 1 của họ vào Việt Nam và chỉ sử dụng 4 – 5 doanh nghiệp vender cấp 2, cấp 3 trong các khâu đóng gói bao bì, vận chuyển. Những khâu này không đáng bao nhiêu giá trị gia tăng trong chuỗi sản xuất của họ.

Advertisement

Nhưng đến khi Samsung mở nhà máy sản xuất điện tử, điện lạnh tại TP HCM, họ đã lựa chọn 9 doanh nghiệp Việt Nam, mỗi doanh nghiệp cử ba chuyên gia sang Hàn Quốc để học tập và làm việc ba tháng để học hỏi cách vận hành, quản lý của họ để làm sao đáp ứng 18 tiêu chí trở thành vender cấp 1 cho Samsung.

Trong vòng ba tháng, 9 doanh nghiệp Việt Nam này đã chuyển đổi cách quản trị, sắp xếp lại dây chuyền, tìm kiếm công nhân, người lao động tay nghề cao và họ đã đáp ứng được yêu cầu của Samsung. Cả 9 doanh nghiệp này đều chưa đầu tư thêm mà chỉ thay đổi cách quản trị, dây chuyền mà đã nâng cao năng lực sản xuất lên 50%.

Sau đó, Samsung đã phối hợp với Bộ Công Thương làm các lớp tập huấn cho chuyên gia Việt Nam để nhóm chuyên gia này lại tư vấn cho các doanh nghiệp. Vì vậy, từ 9 vender là doanh nghiệp Việt Nam, hiện nay Samsung có hơn 300 vender là doanh nghiệp nội, trong đó có trên 100 doanh nghiệp cấp 1.

Chỉ có đưa các chính sách vừa yêu cầu vừa ưu đãi, khuyến khích thì doanh nghiệp nội mới có cơ hội hợp tác với các FDI thay vì cạnh tranh hay đối đầu.

Các doanh nghiệp tầm trung của Việt Nam hoàn toàn đủ sức làm vender của các doanh nghiệp FDI nhưng họ không có điều kiện, tiếp cận và cần sự hỗ trợ từ Nhà nước.

Advertisement

Cũng không cần cử chuyên gia đi học ở Nhật Bản hay Hàn Quốc mà nên học từ chính các FDI trong nước để chuyển giao, đổi mới, công nghệ, quản trị. Chỉ có nâng cao được năng suất lao động và trình độ công nghệ, các doanh nghiệp mới tăng trưởng bền vững và không phụ thuộc quá nhiều về tài nguyên đất đai hay vốn.

Như ông đã phân tích, những bất cập về chính sách, khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng, đất đai của doanh nghiệp tư nhân dẫn đến thực trạng số doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ chiếm tới 66,8%, trong khi doanh nghiệp công nghiệp lại rất ít ỏi. Vậy phải làm sao để phát triển khu vực này, bởi các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc đều phải có một nền công nghiệp rất vững chắc?

Công nghiệp hoá, phát triển khoa học công nghệ là quá trình tất yếu để đột phá và trở thành nước phát triển. Quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc được tiến hành từ năm 1961 đến năm 1991. Trong ba thập niên đó, Hàn Quốc từ một nước nghèo nàn trở thành một trong những cường quốc đứng đầu Đông Á.

Tương tự, Nhật Bản cũng có một nền công nghiệp phát triển với khoa học kỹ thuật tiên tiến bởi đây là gốc của quá trình tăng năng suất lao động, tạo ra giá trị gia tăng cao hơn

.Tại Việt Nam, mới đây Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, đang tiến hành Tổng kết Nghị quyết của Trung ương về Kinh tế tư nhân để ra định hướng và giải pháp nhằm đưa khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực tăng trưởng quan trọng. Đây là một định hướng rất đúng đắn.

Chính phủ cũng đã ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn và Đề án Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030.

Advertisement

Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiếp tục phát triển mạnh với tinh thần dám nghĩ, dám làm, phát huy trí tuệ, bản lĩnh của người Việt Nam; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam xếp hạng 44/132, tăng 4 bậc so với năm 2022.

Định hướng của Chính phủ đã có, hệ thống chính sách đang dần được hoàn thiện. Đặc biệt là cần phát huy tốt hơn nữa vai trò của Hiệp hội nghề nghiệp.

Ở Việt Nam đang có hàng nghìn hiệp hội doanh nghiệp theo các ngành nghề nhưng hiện vẫn hoạt động theo kiểu chia sẻ thông tin với nhau chứ chưa có cơ chế hợp tác theo kiểu doanh nghiệp lớn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và dần dần lan toả ra. Đồng thời, Chính phủ cũng chưa có những cơ chế để hỗ trợ các hiệp hội này.

Bên cạnh đó, văn hoá hợp tác của Việt Nam cũng chưa thực sự tốt, các doanh nghiệp khi phát triển hơn một chút thì “cá lớn nuốt cá bé” hoặc ra thị trường nước ngoài thì cạnh tranh nhau, phá giá để giành thị phần.

Ở góc độ vĩ mô, xu hướng này sẽ làm giảm tốc độ phát triển của cả khu vực doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân. Người Nhật hơn chúng ta ở một điểm, họ rất đoàn kết khi ra thị trường nước ngoài, có tính cộng đồng cao.

Advertisement

Nếu một doanh nghiệp Nhật đã đàm phán với một đối tác nước ngoài khác sẽ không có bất kỳ doanh nghiệp Nhật nào khác cạnh tranh, hạ giá để phá mối làm ăn của doanh nghiệp kia, bởi tính tự tôn và cộng đồng của họ rất cao. Khi ra nước ngoài, các doanh nghiệp lớn cũng ưu tiên sử dụng các doanh nghiệp nhỏ làm nhà cung cấp, người dân Nhật Bản và cả Hàn Quốc cũng ưu tiên sử dụng hàng hoá nội địa.

Vì vậy, phải khơi dậy tinh thần dân tộc, đoàn kết trong hợp tác với thế giới, đồng thời nâng cao vị trí, vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp để tránh các doanh nghiệp bán phá giá, gây lợi cho các đối tác nước ngoài. Thà là để cho doanh nghiệp cùng nước họ hưởng lợi chứ người Nhật không bao giờ để doanh nghiệp nước ngoài hưởng lợi.

Người Hoa có cộng đồng kinh doanh người Hoa, người Hàn, người Nhật có cộng đồng của họ thì Việt Nam vốn đã nhiều doanh nghiệp nhỏ càng phải đoàn kết.

Cộng đồng doanh nghiệp cần kiến nghị căn cứ đường lối của Đảng, Quốc hội sớm ban hành Luật về Tổ chức xã hội, trong đó quy định hành lang pháp lý đối với Hiệp hội ngành nghề làm căn cứ để từng Hiệp hội hình thành quan hệ hợp tác và phân công đối với từng loại hình doanh nghiệp, tạo thành hợp lực của từng Cộng đồng doanh nghiệp trong cuộc cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường thế giới.

Vậy với các doanh nghiệp tư nhân, cần làm gì để nắm bắt cơ hội đổi mới, bứt phá trong bối cảnh mới?

Với doanh nghiệp tư nhân, tôi cho rằng cần thực hiện ngay mấy giải pháp. Thứ nhất là, đổi mới công nghệ, bồi dưỡng nhân lực chất lượng cao, để chuyển nhanh sang kinh tế số, kinh tế tuần hoàn

Advertisement

Doanh nghiệp cần có quan điểm, nhận thức về việc chuyển sang kinh tế số, doanh nghiệp số, sản xuất và kinh doanh xanh là giải pháp quan trọng trong bối cảnh mới.

Bởi vì, nếu không thay đổi mô hình tăng trưởng của mình thì không bảo đảm tạo ra lợi thế khai thác tiềm năng của từng loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo xu hướng mới lấy khoa học và công nghệ, nhân lực tạo ra năng suất và chất lượng cao, hiệu quả kinh tế của sản xuất, kinh doanh, thậm chí bị đào thải không những trên thị trường thế giới, mà cả thị trường trong nước.

Thứ hai là điều chỉnh chiến lược kinh doanh và đầu tư. Từ cách tiếp cận mới, sửa đổi, bổ sung chiến lược kinh doanh trên cơ sở chuyển sang quản trị doanh nghiệp theo xu hướng số, AI, Blochain, Fintech để đáp ứng với đòi hỏi của FTAs thế hệ mới trong hợp tác và đầu tư, tham gia có hiệu quả với các doanh nghiệp trong thương mại và đầu tư với đối tác nước ngoài.

Cũng như, nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường, giảm thiểu khi phát thải hướng tới Net 0 vào năm 2050.

Cuối cùng là chủ động tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu bằng cách đổi mới công nghệ, sản xuất, kinh doanh thông minh đáp ứng đầy đủ tiêu chí của các doanh nghiệp FDI để gia tăng giá trị sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá, từng bước xây dựng thương hiệu có uy tín trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thế giới.

Advertisement

Các doanh nghiệp lớn, tập đoàn kinh tế trong nước làm đầu tàu trong việc hợp tác và hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm theo hướng nâng dần quy mô vốn, đổi mới công nghệ, nhân lực, quản trị doanh nghiệp để cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam làm chủ thị trường trong nước, tiến tới gia tăng thị phần từng loại sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng ngày càng cao.

Xin cảm ơn ông!

Nguồn: doanhnhanvn

Advertisement
Đọc tiếp

Chuyện làm ăn

Nước mắm truyền thống trước nguy cơ suy giảm nguồn cá cơm

Đánh bắt cá cơm.

Dọc các làng chài ven biển miền Trung, từ bao đời nay, nước mắm không chỉ là một sản phẩm, mà còn là biểu tượng của truyền thống, của niềm tự hào văn hóa. Thế nhưng, giữa cơn bão của biến đổi khí hậu, đánh bắt quá mức và sự cạnh tranh khốc liệt của nước mắm công nghiệp, nghề làm nước mắm truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một. Cốt lõi của vấn đề nằm ở nguồn cá cơm – nguyên liệu thiết yếu để tạo nên giọt nước mắm cốt đậm đà.

Nỗi lo mất cá – Mất cả một ngành nghề truyền thống

Cá cơm phát triển mạnh ở các vùng biển ven bờ, nơi có hệ sinh thái giàu dinh dưỡng, nhưng tình trạng đại dương nóng lên và giảm lượng oxy trong nước đã khiến đàn cá di chuyển xa hơn hoặc thu nhỏ kích thước. Theo Renato Salvatteci, nhà nghiên cứu nghề cá tại Đại học Christian Albrecht (Kiel, Đức), sự thay đổi nhiệt độ toàn cầu từng tác động đến kích thước cá trong quá khứ, và nếu xu hướng này tiếp diễn, cá cơm có thể sẽ không thể tồn tại trong môi trường quen thuộc của nó.

Hệ quả không chỉ dừng lại ở việc ảnh hưởng đến sản lượng nước mắm. Cá cơm là mắt xích quan trọng trong chuỗi thức ăn đại dương, làm thức ăn cho các loài cá lớn hơn như cá thu, cá ngừ – những loài có giá trị kinh tế cao. Chúng cũng là nguyên liệu chính để sản xuất bột cá, phục vụ ngành nuôi trồng thủy sản. Nếu sản lượng cá cơm suy giảm, toàn bộ ngành thủy sản Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nặng nề, kéo theo những hệ lụy về kinh tế và an ninh lương thực.

Tình trạng đánh bắt quá mức càng làm vấn đề trở nên trầm trọng hơn. Từ những năm 1980, phương pháp đánh bắt công nghiệp với lưới kéo quy mô lớn đã quét sạch nhiều loài cá, khiến sản lượng đánh bắt không còn tăng trưởng, dù ngư dân vẫn cố gắng ra khơi nhiều hơn. Thậm chí, theo một nghiên cứu năm 2021 của Đại học British Columbia (Canada), ngay cả khi thế giới kiểm soát được mức tăng nhiệt toàn cầu dưới 1,5°C và giảm một nửa cường độ đánh bắt cá, Biển Đông vẫn mất hơn 20% trữ lượng cá. Nếu nhiệt độ tăng đến 4,3°C, gần như toàn bộ nguồn cá sẽ biến mất.

Advertisement

Giữa thách thức, một gia đình vẫn kiên trì giữ lửa nghề nước mắm

Giữa biến động đó, tại một làng chài nhỏ ven biển miền Trung, gia đình ông Bùi Văn Phong vẫn gắng sức giữ nghề làm nước mắm truyền thống đã trải qua bốn thế hệ. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông Phong đã có cơ hội rời quê hương để tìm kiếm tương lai khác, nhưng ông quyết định ở lại, tiếp tục nghề cha ông để lại. Ngày nay, con trai ông, Bùi Văn Phú, 41 tuổi, tiếp nối truyền thống ấy, nhưng con đường phía trước không hề dễ dàng.

“Nước mắm không chỉ là gia vị. Nó là một phần của lịch sử, văn hóa. Là niềm tự hào của gia đình tôi và bao đời người dân làng chài,” ông Phú chia sẻ.

Nguyên liệu cốt lõi để làm nên giọt nước mắm thượng hạng vẫn là cá cơm. Mùa đánh bắt cá cơm kéo dài từ tháng 1 đến tháng 3, khi đàn cá tụ về ngoài khơi Đà Nẵng. Những con cá đạt chuẩn về kích thước và độ tươi ngay lập tức được trộn với muối biển rồi cho vào thùng ủ. Gia đình ông Phú sử dụng công thức 3 phần cá – 1 phần muối, một tỷ lệ đã được truyền lại từ nhiều đời.

Thời gian ủ kéo dài đến 18 tháng. Trong quá trình lên men, hỗn hợp phải được khuấy đều đặn hàng tuần để đảm bảo hương vị và màu sắc đạt chuẩn. Muối biển từ các vùng khác nhau cũng tạo ra hương vị khác nhau, và chính bí quyết riêng của mỗi gia đình làm nên sự khác biệt của từng thương hiệu nước mắm truyền thống.

Nhưng những năm gần đây, ông Phú ngày càng gặp khó khăn hơn trong việc tìm nguồn cá đạt chuẩn. Sản lượng đánh bắt giảm, kích thước cá nhỏ dần, khiến nhiều ngư dân thậm chí phải chuyển sang nghề khác. Nếu không có mối quan hệ lâu năm với các ngư dân đánh bắt cá cơm, gia đình ông Phú có thể đã phải mua cá với giá cao hơn rất nhiều trên thị trường.

Advertisement

“Nhiều gia đình làm nước mắm trong làng đã phải bỏ nghề. Giá cá cơm cao, trong khi giá nước mắm truyền thống không thể tăng mạnh vì người tiêu dùng còn e ngại chi phí. Chúng tôi đang cố giữ nghề, nhưng cũng lo lắng cho tương lai,” ông Phú chia sẻ.

Tương lai nào cho nước mắm truyền thống Việt Nam?

Việt Nam hiện là một trong hai quốc gia xuất khẩu nước mắm lớn nhất thế giới, cùng với Thái Lan. Theo dự báo của Introspective Market Research, thị trường nước mắm toàn cầu sẽ tăng trưởng từ 18,5 tỷ USD năm 2023 lên gần 29 tỷ USD vào năm 2032. Để tận dụng cơ hội này, Việt Nam đang đẩy mạnh cải thiện tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản.

Tuy nhiên, nước mắm truyền thống đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ nước mắm công nghiệp, vốn có giá thành rẻ hơn và dễ tiếp cận người tiêu dùng hơn. Nhiều nhà sản xuất nước mắm truyền thống đang tìm cách hiện đại hóa quy trình mà vẫn giữ được hương vị nguyên bản, đồng thời tăng cường quảng bá sản phẩm đến thị trường quốc tế.

Dẫu vậy, vấn đề cốt lõi vẫn là nguồn nguyên liệu. Nếu không có cá cơm, không có nước mắm truyền thống. Nếu ngư dân không còn mặn mà với nghề, thì những giọt nước mắm cốt lâu đời cũng có thể trở thành ký ức.

Giữ gìn nước mắm – Giữ gìn bản sắc dân tộc

Nước mắm không đơn thuần chỉ là một loại gia vị. Nó là linh hồn của ẩm thực Việt, là thứ hương vị mà những người con xa quê luôn nhớ về. Các đầu bếp hàng đầu của Việt Nam từng khẳng định rằng không có nước mắm, ẩm thực Việt Nam sẽ mất đi bản sắc.

Advertisement

Dẫu khó khăn, những người như ông Phú vẫn nỗ lực giữ gìn nghề truyền thống, với hy vọng thế hệ sau vẫn còn cơ hội tiếp tục công việc này. Nhưng để làm được điều đó, cần sự chung tay từ nhiều phía – từ chính sách hỗ trợ ngư dân, kiểm soát đánh bắt bền vững, đến việc nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về giá trị của nước mắm truyền thống.

“Nước mắm không chỉ là gia vị để nấu ăn. Đó là nghề thủ công, là văn hóa, là truyền thống mà chúng tôi cần gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau,” ông Phú nói, trong khi đôi tay vẫn đang tỉ mỉ khuấy đều từng thùng nước mắm, giữ vững một nghề đã tồn tại hàng trăm năm qua.

Thế nhưng, nếu nguồn cá cơm cứ tiếp tục suy giảm, liệu rằng những giọt nước mắm cốt đậm đà của làng chài Việt Nam có còn tồn tại trong vài thập kỷ tới?

Nguồn: vnbusiness

Advertisement
Đọc tiếp

Chuyện làm ăn

Long Châu, Pharmacity và những cái tên nào đang chia phần ‘miếng bánh’ tỷ đô ngành bán lẻ dược phẩm?

Thị phần các chuỗi nhà thuốc tại Việt Nam tính đến tháng 11/2024. Ảnh: Vietdata

Thị trường dược phẩm bán lẻ Việt Nam đang ‘nóng’ hơn bao giờ hết khi đó là cuộc chiến giành thị phần giữa các chuỗi nhà thuốc. Loạt ‘ông lớn’ Long Châu, Pharmacity, An Khang đang không ngừng bứt phá, song sự trỗi dậy của những cái tên mới như Phano Pharmacy, Trung Sơn Pharma… cũng đã cho thấy bức tranh toàn cảnh liên tục biến động và đầy bất ngờ.

Ngành bán lẻ dược phẩm được định giá ở mức 2 tỷ USD‏

‏Thị trường bán lẻ dược phẩm tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Mọi người ngày càng quan tâm đến sức khỏe của mình và sẵn sàng chi nhiều hơn cho các loại dược phẩm bảo vệ sức khỏe. Ngoài ra, sự dịch chuyển dân số già hóa đã dẫn đến nhu cầu về dược phẩm tăng lên, đặc biệt là khi tuổi già thường đi kèm với nhiều vấn đề sức khỏe khác nhau. ‏

‏Với sự tăng trưởng ổn định về nhu cầu dược phẩm, các chuỗi nhà thuốc ngày càng nhận ra tiềm năng phân phối các sản phẩm này. Trong những năm tới, thị trường dược phẩm của Việt Nam được dự đoán sẽ mở rộng hơn nữa, được thúc đẩy bởi nhận thức về chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng trong dân số. Do đó, ngành chuỗi nhà thuốc đã nổi lên như một cơ hội đầu tư đầy hứa hẹn.

Sức hấp dẫn của thị trường này đã được chứng minh khi loạt thương hiệu lớn liên tiếp đầu tư vào lĩnh vực này. Mới đây nhất, hồi cuối năm 2024, Chris Blank, nhà sáng lập kiêm cựu CEO của Pharmacity đã thông báo khai trương chuỗi nhà thuốc mới mang tên Phượng Hoàng. ‏‏Từng điều hành Pharmacity – một trong ba chuỗi nhà thuốc có thị phần lớn nhất Việt Nam, ông Chris Blank nói mục tiêu của Phượng Hoàng “không phải là chiến thắng theo cách thông thường, mà là tiếp tục cuộc hành trình, tiếp tục phát triển, cải thiện và tạo ra những giá trị bền vững”.‏

‏Mặc dù nền kinh tế đang trải qua thời kỳ suy thoái kéo dài, các chuỗi nhà thuốc vẫn tiếp tục tăng doanh thu qua từng năm. Trong giai đoạn hậu COVID-19, một số chuỗi chứng kiến ​​doanh thu giảm nhẹ, nhưng xu hướng chung trong năm năm qua là tăng trưởng.

Advertisement

Thống kê của Cục Quản lý Dược, Bộ Y tế, hiện thị trường thuốc Việt khoảng 7 tỷ USD, bình quân tiêu thụ thuốc 70 USD/đầu người, tăng gấp 10 lần so với năm 2000.‏

‏Việt Nam hiện thuộc nhóm quốc gia có tổng giá trị thị trường dược phẩm và mức tăng trưởng ngành dược nhanh nhất thế giới. Tổng giá trị thị trường dược phẩm tại Việt Nam đạt 2,7 tỷ USD trong năm 2015, tăng lên 5,1 tỷ USD năm 2018 và năm 2020 đạt 6,1 tỷ USD. Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ngành công nghiệp dược Việt Nam ở cấp độ 3 (cấp có ngành công nghiệp dược nội địa, có sản xuất thuốc generic, xuất khẩu được một số dược phẩm).‏

‏Theo thống kê từ Vietdata, trong quy mô 7 tỷ USD này, 70% thị phần thuộc về kênh đấu thầu bệnh viện. Điều này có nghĩa là thị trường bán lẻ, với 60.000 hiệu thuốc, chiếm 2 tỷ USD còn lại. Trong số này, 7 chuỗi nhà thuốc hiện đại, với hơn 3.000 cửa hàng và tổng doanh thu 1,1 tỷ USD, nắm giữ hơn 50% thị phần dược phẩm bán lẻ trên cả nước. ‏

‏Chuỗi nhà thuốc hoạt động thông qua ETC (thuốc theo toa) và OTC (thuốc không kê đơn). Kênh OTC hấp dẫn các nhà đầu tư do biên lợi nhuận cao hơn và không yêu cầu kê đơn, giúp người tiêu dùng dễ tiếp cận và thuận tiện hơn.

Ảnh: Vietdata

‏Cuộc đua giành ‘miếng bánh’ tỷ USD‏

‏Cuộc cạnh tranh để mở rộng hệ thống nhà thuốc và thống lĩnh thị trường ngày càng trở nên khốc liệt, được hỗ trợ tài chính mạnh mẽ từ các tập đoàn mẹ. Sự hỗ trợ này đóng vai trò là bàn đạp để các chuỗi liên tục mở rộng sự hiện diện của mình. Cả vốn trong nước và nước ngoài đều đang gia tăng cạnh tranh, bởi tiềm năng lớn của thị trường này. ‏

‏Theo số liệu thống kê từ Vietdata, 3 ‏‏chuỗi nhà thuốc lớn nhất là Long Châu, An Khang và Pharmacity đang dẫn đầu thị trường. Tại nhiều khu dân cư, các chuỗi này nằm trên cùng một con phố hoặc cạnh nhau, làm nổi bật sự cạnh tranh khốc liệt trong việc thu hút khách hàng. Các hiệu thuốc mọc lên nhanh chóng, với mật độ cửa hàng cao ở cả các khu đô thị lớn và nhỏ.‏

Advertisement

‏Tuy nhiên, với sự cạnh tranh khốc liệt, một số chuỗi nhà thuốc đã buộc phải cắt giảm chi nhánh do kém hiệu quả. Trên thực tế, việc mở rộng quy mô không phải lúc nào cũng mang lại lợi ích kinh tế, chưa kể đến việc lãng phí nguồn lực không tạo ra giá trị thực sự cho doanh nghiệp. Mặc dù được các tập đoàn lớn hậu thuẫn, các chuỗi này liên tục phải đối mặt với áp lực duy trì hiệu quả kinh doanh và đảm bảo tăng trưởng bền vững.‏

‏Theo BCTC hợp nhất quý IV/2024 do C‏‏TCP Bán lẻ Kỹ thuật số FPT (FPT Retail, mã: FRT)‏‏ công bố, ‏‏FPT Long Châu ghi nhận doanh thu năm 2024 đạt 25.320 tỷ đồng, chiếm 59% tổng doanh thu và tăng 59% so với năm trước. Doanh thu trung bình trên mỗi nhà thuốc duy trì khoảng 1,2 tỷ đồng/tháng.‏

‏Long Châu là một trong những hệ thống bán lẻ dược phẩm lớn nhất và phát triển nhanh nhất tại Việt Nam. Năm 2016, chuỗi này có 185 nhà thuốc, tính đến hết tháng 3/2025, số lượng đã tăng lên 1.998, tăng trưởng gấp hơn 10 lần trong 8 năm qua. ‏

‏Long Châu cũng đã mở rộng sang dịch vụ tiêm chủng bằng cách thành lập các Trung tâm Tiêm chủng Long Châu, bổ sung cho mô hình nhà thuốc và tối ưu hóa hiệu quả hoạt động. Hiện Long Châu sở hữu 124 trung tâm tiêm chủng trên toàn quốc. 

Pharmacity từng là chuỗi bán lẻ dược phẩm hàng đầu tại Việt Nam, đã trở nên nổi tiếng nhờ tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và mục tiêu đầy tham vọng là đạt 5.000 nhà thuốc vào năm 2025. Tuy nhiên, sau khi mở rộng nhanh chóng, chuỗi này đã phải đối mặt với thách thức trong việc duy trì thị phần.‏

Advertisement

‏Tốc độ tăng trưởng nhanh dẫn đến các vấn đề về hiệu suất, buộc Pharmacity phải đóng cửa các chi nhánh hoạt động kém hiệu quả. Tính đến nay, chuỗi nhà thuốc này còn 940 hiệu thuốc. Vị trí dẫn đầu mà Pharmacity từng nắm giữ hiện đã chuyển sang Long Châu, chủ yếu là do khó khăn trong việc điều chỉnh giá sản phẩm và đảm bảo nguồn cung thuốc đầy đủ.‏

‏Từ năm 2022, Pharmacity đã trải qua một số thay đổi về vị trí CEO. Cụ thể, ‏‏năm 2022, nhà sáng lập là ông Chris Blank rời vị trí Tổng giám đốc, người thay thế là bà Trần Tuệ Tri; sang 2023, Công ty có Tổng giám đốc mới là ông Deepanshu Madan. ‏‏Điều này đã ảnh hưởng đến định hướng chiến lược của chuỗi. Để vượt qua những thách thức này, Pharmacity đã chủ động sửa đổi chiến lược định giá và mở rộng danh mục sản phẩm, nhấn mạnh vào việc cải thiện dịch vụ thuốc theo toa. ‏

‏Sau khi đối mặt với cuộc khủng hoảng kép từ cả môi trường kinh tế và các vấn đề nội bộ công ty, Pharmacity đã trải qua một năm tài chính khó khăn nữa. Doanh thu của công ty trong năm 2024 giảm khoảng 15% so với năm trước, chủ yếu là do đóng cửa gần 200 cửa hàng. Mặc dù cắt giảm các chi nhánh không hiệu quả, chuỗi này vẫn báo cáo khoản lỗ ròng hơn 900 tỷ đồng. Sau hai năm liên tiếp thua lỗ đáng kể và thay đổi lãnh đạo thường xuyên, Tổng giám đốc điều hành Pharmacity đã tái khẳng định cam kết của công ty trong việc giành lại vị thế trên thị trường và giành lại khách hàng.‏

‏An Khang là chuỗi nhà thuốc được Thế Giới Di Động mua lại vào năm 2017 và sở hữu hoàn toàn từ năm 2021. Trước đó, MWG đặt mục tiêu đầy tham vọng là mở rộng An Khang lên 2.000 nhà thuốc, nhưng kế hoạch này tỏ ra khó khăn vì số lượng chi nhánh đã dần giảm. ‏‏Trong năm 2023, An Khang chỉ tăng 27 nhà thuốc lên con số 527. Sang tới 2024, quy mô chủ yếu đi ngang trong giai đoạn đầu năm trước khi ghi nhận động thái thu hẹp mạnh mẽ từ tháng 6.‏

‏Tính đến cuối năm 2024, chuỗi nhà thuốc An Khang còn 326 nhà thuốc, giảm 200 nhà thuốc so với đầu năm, hoạt động đóng cửa các cửa hàng diễn ra vào 10 tháng đầu năm, 2 tháng cuối cùng của năm, An Khang không đóng cửa thêm nhà thuốc nào.‏

Advertisement

‏Báo cáo tài chính năm 2024 của Thế giới di động (mã: MWG) cho thấy, chuỗi nhà thuốc An Khang đạt doanh thu cả năm gần 2.300 tỷ đồng, tăng trưởng 3% so với cùng kỳ. Riêng quý IV/2024, doanh thu bình quân/cửa hàng tăng 15% so với mức trung bình 2 quý liền trước và mức lỗ đã giảm đáng kể so với các quý còn lại trong năm. Năm 2024, An Khang lỗ gần 347 tỷ đồng, nâng lỗ lũy kế lên mức 1.008 tỷ đồng.‏

‏Mặc dù doanh thu tăng trưởng, nhưng lợi nhuận vẫn là thách thức đối với An Khang. Mặc dù không mở thêm nhà thuốc mới, nhưng chi phí nâng cấp sản phẩm, xây dựng thương hiệu, tồn kho và chi phí tiếp thị đã làm xói mòn lợi nhuận. ‏‏Trong khi MWG đặt mục tiêu đạt điểm hòa vốn chuỗi nhà thuốc An Khang vào quý II năm nay, chuyên gia SSI Research dự báo, doanh thu năm 2025 của chuỗi nhà thuốc An Khang có thể giảm còn 2.000 tỷ đồng do MWG vẫn đang gặp khó khăn với mô hình kinh doanh nhà thuốc và có thể chịu lỗ 232 tỷ đồng trong 2025.‏

‏MEDiCARE là chuỗi nhà thuốc kết hợp bán dược phẩm với mỹ phẩm chăm sóc sức khỏe và làm đẹp. Mô hình kinh doanh này giúp MEDiCARE đa dạng hóa danh mục sản phẩm và tiếp cận lượng khách hàng rộng hơn, qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của từng chi nhánh. Hiện nay, MEDiCARE đang vận hành hơn 140 cửa hàng trên khắp Việt Nam và Myanmar.‏

‏Theo Vietdata, tại MEDiCARE, dược phẩm chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong doanh số so với mỹ phẩm, nghĩa là hầu hết người tiêu dùng vẫn coi MEDiCARE là một nhà bán lẻ mỹ phẩm hơn là một hiệu thuốc. Trong khi cả chuỗi mỹ phẩm và dược phẩm đều phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt, MEDiCARE vẫn chưa thể nổi bật trong cả hai lĩnh vực. Sự mở rộng của các đối thủ cạnh tranh lớn hơn đặt ra một thách thức đáng kể cho MEDiCARE, xét đến quy mô tương đối khiêm tốn của công ty.‏

‏Hiệu quả kinh doanh của chuỗi không mấy khả quan. Doanh thu dao động trong khoảng 200 – 300 tỷ đồng và có xu hướng giảm. Năm 2023, chuỗi tạo ra 240 tỷ đồng, tương đương khoảng 1,7 tỷ đồng/cửa hàng, mặc dù có vị trí đắc địa tại các trung tâm thương mại hoặc các tuyến phố lớn. Tuy nhiên, các vị trí đắc địa này vẫn chưa tạo ra đủ doanh thu để trang trải chi phí bán hàng, khiến chuỗi lỗ hơn 110 tỷ đồng.‏

Advertisement

‏Trung Sơn Pharma được thành lập năm 1997, là chuỗi nhà thuốc lớn nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2023, Trung Sơn đã bán 51% cổ phần cho Donghwa Pharma (Hàn Quốc) với giá 30 triệu USD, định giá công ty ở mức hơn 1.400 tỷ đồng.‏

‏Từ khi có cổ đông nước ngoài, Trung Sơn Pharma đã mở rộng lên 200 nhà thuốc, tăng 60 chi nhánh và có kế hoạch mở rộng lên 460 cửa hàng tại Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh.‏

‏Mô hình kinh doanh của Trung Sơn cân bằng giữa dược phẩm và mỹ phẩm. Ngoài ra, Trung Sơn Pharma còn sở hữu một phòng khám thẩm mỹ, một trung tâm mỹ phẩm và một nền tảng thương mại điện tử. Sự đa dạng này cùng sự hiện diện mạnh mẽ tại Đồng bằng sông Cửu Long đã giúp Trung Sơn Pharma tạo ra doanh thu lên tới hàng tỷ đồng.‏

‏Dữ liệu từ Vietdata, năm 2023, doanh thu Trung Sơn Pharma giảm hơn 7%, có thể do những thách thức kinh tế rộng lớn hơn. Đáng chú ý hơn, lợi nhuận ròng giảm mạnh, công ty báo lỗ gần 60 tỷ đồng.‏

‏Từng được kỳ vọng có vị trí vững chắc trên thương trường sau khi hợp tác với Masan và sáp nhập vào hệ thống Winmart, tuy nhiên, Phano Pharmacy lại khá ít xuất hiện và thị phần cũng ngày càng khiêm tốn. ‏‏Theo Nhịp cầu đầu tư, năm 2017, Phano là hệ thống dẫn đầu thị trường bán lẻ dược phẩm với chuỗi 60 nhà thuốc. Tuy nhiên, vài năm gần đây, thị trường bán lẻ dược phẩm cạnh tranh rất khốc liệt, Pharmacity với nguồn vốn đầu tư lớn đã liên tục bành trướng, chưa kể sự tham gia của những tân binh. Cập nhật đến tháng 3/2025, chuỗi nhà chuỗi này còn vỏn vẹn 37 cửa hàng, chủ yếu tập trung tại TP HCM. ‏

Advertisement

‏ECO Pharma là chuỗi nhà thuốc có ít chi nhánh nhất, nằm trong hệ sinh thái cùng Bệnh viện Tâm Anh và Trung tâm tiêm chủng VNVC. Công ty chủ yếu phân phối dược phẩm cho các nhà thuốc bệnh viện và các hiệu thuốc bán lẻ trên toàn quốc. Năm 2023, chuỗi ghi nhận doanh thu giảm hơn 28% so với năm trước. Chi phí quảng cáo thường xuyên vào giờ cao điểm cũng dẫn đến chi phí đáng kể cho chuỗi. Đến cuối năm 2023, lợi nhuận của công ty giảm xuống chỉ còn hơn 1 tỷ đồng, cải thiện đôi chút so với năm trước, nhưng biên lợi nhuận ròng 0,1% vẫn cực kỳ mỏng.

Nguồn: doanhnhanvn

Đọc tiếp

Được quan tâm