“Thấy những thương hiệu Việt bị bán đi, tôi đau lắm”. Đây là lời của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan khi trò chuyện với Nông thôn Việt.
Có lẽ đó không đơn giản là cảm thán gan ruột của một người đã miệt mài góp sức cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp (DN), mà nó còn cho thấy sự bất lực của DN, thiếu trách nhiệm nhà nước trong cuộc chiến bảo vệ thương hiệu Việt, trong bối cảnh những chủ trương chính sách bị tù đọng, thậm chí bị ngó lơ lẫn lãng quên, lòng tin bị đánh mất, bất bình đẳng chưa từng bị xóa bỏ. Một nền kinh tế được dẫn dắt bởi thị trường nhưng định hướng là của nhà nước, thì trách nhiệm đi liền với hành động của người điều hành, ban hành chính sách như cỗ xe song mã. Giải mã những bước chạy khá rõ ràng, cụ thể, nhịp nhàng, đặt niềm tin có cơ sở để không cần phải “mở đường máu” mà DN vẫn tự tin sinh tồn và phát triển, được bà chia sẻ từ cái nhìn vừa xa vừa gần của một người trong cuộc.
Doanh nghiệp nước ngoài: ngồi không mà hưởng lợi
Thời gian qua, các công ty như Nhựa Bình Minh, Ngọc Nghĩa, Duy Tân, Bao bì Biên Hòa… điện máy Nguyễn Kim, siêu thị Big C, siêu thị Lan Chi, MM Mega Market, Sabeco, Kem Dạ Lan, P/S; Diana; Viso; Phở 24; Bibica… bị các DN nước ngoài thâu tóm, nắm đa số cổ phần, cổ phiếu, chi phối và thu hàng tỷ USD từ những cỗ máy in tiền này. Không chỉ các tập đoàn lớn, nhiều quỹ đầu tư lớn của nước ngoài cũng đang đầu tư vào các cổ phiếu hàng đầu Việt Nam như: VCB, ACB, MWG, FPT, HPG, VRE, VNM…
Họ thâu tóm DN Việt khi thương hiệu, nguồn hàng, đối tượng tiêu dùng, cơ sở sản xuất lẫn thói quen mua sắm của người dùng đối với các thương hiệu này đã quá ổn định. Vì vậy, sau đó, họ chỉ cần tăng vốn, cấu trúc lại, mở rộng thị trường, khuếch trương thương hiệu, là xong. Bà có nghĩ là họ quá sung sướng không, khi “mâm bát” dọn sẵn, chỉ sắp xếp lại, thêm thắt chút đỉnh, là ăn?
Tôi rất ngại là trong thời gian vừa qua, tâm trạng chung của chủ DN là nhiều người nản muốn ra khỏi thị trường. Ai còn ý chí kinh doanh thì họ tạm ngừng lại để xem xét lại các vấn đề nảy sinh và tính toán tái cơ cấu. Có nhiều DN lựa chọn đóng cửa cơ sở hay ngành nghề kinh doanh cũ để bắt đầu lại từ đầu một công việc khác, hoặc khởi sự DN một cách khác theo tình hình thực tế. Nhưng mà như vậy nó đòi hỏi thời gian, công sức và tốn kém. Và nếu không tái cơ cấu được, không đủ chi phí nuôi nhân công, duy trì hoạt động thì họ chỉ còn cách buộc phải bán đi, đó là cái đau nội tại của DN.
Đau hơn nữa là việc mua bán sáp nhập với DN nước ngoài trong thời gian qua liên quan đến nhiều DN trong nước đã thành danh ở mức độ nhất định. Tuy chưa phải là các đại gia hàng đầu, nhưng các công ty đã bán cũng đã xây dựng được thị trường nội địa và xuất khẩu khá tốt, họ đã có hệ thống phân phối tương đối tốt, có thương hiệu được biết đến rộng rãi…
Qua sự việc hàng loạt công ty nhựa, nước giải khát, ngành hàng tiêu dùng, tài chính… bị Thái Lan thâu tóm mới đây cho thấy tầm nhìn của các nhà đầu tư nước ngoài. Họ thấy rằng mua lại của các DN Việt thì đã có sẵn bất động sản, cơ sở sản xuất, chế biến, phân phối, tiêu thụ, thuận lợi và nhanh hơn rất nhiều so với đầu tư mới ngay từ đầu vào Việt Nam. Chưa kể, thị trường ở Việt Nam có 100 triệu dân, và sức tiêu dùng thì tuy là vài năm gần đây có khó khăn từ Covid-19, nhưng mà mức tăng trưởng của thị trường nội địa Việt Nam vẫn vào loại khá so với các nước đang phát triển khác. Họ mua DN Việt Nam thì coi như có thể sản xuất và xuất khẩu hàng hóa ngay tại Việt Nam.
Không ít nhà đầu tư nước ngoài nhằm vào thị trường Việt Nam là nơi để tiêu thụ hàng cho họ. Một số hướng vào xuất khẩu thì lại tận dụng các thị trường mà Việt Nam kí FTA. Đặc biệt là đối với các nước giảm thuế xuất khẩu cho Việt Nam, chẳng hạn như 12 nước CPTPP (đã kí kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) hoặc các nước ASEAN. Như vậy, họ vừa được lợi thế tiêu thụ thị trường nội địa ở Việt Nam và cạnh tranh trong xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Việt cùng lĩnh vực.
Không phủ nhận dòng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam đem lại công việc làm, đóng thuế, tạo sản phẩm, kích thích sản xuất. Nhưng họ càng lớn mạnh, thì nguy cơ càng cao, khi DN Việt bị mất tên tuổi, hoặc có tiếng không có miếng, rỗng ruột. DN Việt bị thua trắng trên sân nhà, bị lâm cảnh “hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
Đã bơi không nổi mà còn bị cột chân
Thưa bà, việc nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ nhưng chưa thực sự đến được tận tay DN, có phải là nguyên nhân các DN Việt buộc phải cầu cạnh nguồn lực từ nước ngoài?
Các vấn đề mà các DN Việt Nam gặp khó và không chống chịu được nữa, thì các DN nước ngoài lại có nhiều điều kiện thuận lợi để làm.
Các nhà đầu tư nước ngoài không bị những khó khăn tương tự như DN Việt Nam. Họ là các tập đoàn lớn, có nguồn vốn mạnh hàng tỷ đô-la. Ở Việt Nam, DN cùng lĩnh vực ấy mất rất nhiều thời gian để làm các thủ tục hành chính trong đầu tư, thì với các DN nước ngoài, quá trình làm thủ tục diễn ra nhanh hơn nhiều do có các chính sách ưu đãi và có sự “chiều chuộng” của các cơ quan liên quan. Các cơ quan nhà nước có tâm lý sợ các tập đoàn nước ngoài kiện vì không thực hiện các quy định, thông lệ quốc tế, nhưng chiều ngược lại, không sợ các DN trong nước khởi kiện. Điều này khiến cho các DN trong nước cùng lĩnh vực thất thế ngay trên sân nhà.
Rồi luật thay đổi liên tục, gây khó khăn cản trở, ví dụ như sự thay đổi của luật đất đai cũng khiến các DN Việt phải tính toán lại điều kiện giá cả thuê đất, nhà xưởng sản xuất, khai báo thuế và các thủ tục liên quan khác… khiến chi phí đội lên quá nhiều. DN lại gặp khó trong tiếp cận nguồn lực, ví dụ như vốn đầu tư – phát triển, khó trong tiếp cận những thủ tục hành chính bình thường cho các hoạt động kinh doanh.
Khó khăn chồng chất mà các DN Việt không tìm thấy lối thoát, họ muốn bán nhưng không có người mua, vì vậy họ quyết định bán cho nhà đầu tư nước ngoài là điều có thể hiểu được.
Tuy nhiên, điều tôi trăn trở là, khi các DN muốn bán gấp DN cho nước ngoài để nhanh chóng rút vốn về, thì họ làm gì tiếp sau đó? Không ít người dùng vốn đó lại tìm cách đầu tư ra nước ngoài, thành nhà đầu tư ra nước ngoài, không làm ở Việt Nam nữa. Bởi họ nhận thấy môi trường cạnh tranh trong nước không ổn chút nào cho DN Việt.
Đó là cái đáng tiếc vô cùng. Vì mình ra sức đi vận động đầu tư nước ngoài vào, rồi chiều chuộng đủ thứ với DN nước ngoài, mà lại có nhiều rào cản đối với DN trong nước, buộc chính những DN người Việt đáng lẽ là những người gắn bó nhất với đất nước quê hương, lăn lộn bao nhiêu năm trên thương trường lại phải rời mà đi theo cách bán lại như thế. Công sức họ đầu tư xây dựng bao nhiêu năm rốt cuộc để DN rơi vào tay nước ngoài một sớm một chiều. Tiếc nữa là DN nước ngoài sau đó tiếp nhận, quản lý, vận hành một cách thuận lợi trên những nền tảng sẵn có của DN Việt.
Như chúng ta thấy với trường hợp Tổng công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn. Năm đầu tiên sau khi mua lại tổng công ty này, tập đoàn Thái Lan đã có thể ngay lập tức tạo lãi lớn. Điều này đặt ra câu hỏi nếu DN Việt được hỗ trợ hiệu quả để vượt qua khó khăn, họ có thể tiếp tục phát triển tốt hay không?
Lòng tin ‘đi vắng’ thì cơ hội vững mạnh càng xa vời
Các DN chua chát, rằng muốn có ưu đãi như đã nghe nói thì hãy “lên ti-vi mà tìm”! Bất đình đẳng trong đối xử, đồng nghĩa là xem nhẹ, chưa nói là coi thường, khiến họ phải tìm “phao” để may ra còn sống. Đây có phải là một trong những lí do khiến DN thất bại, khi lòng tin từ những cam kết trở thành trò đùa không?
Như tôi nói rất nhiều lần rồi, tôi chỉ mong nhà nước đối xử với DN Việt Nam như đối xử với nhà đầu tư nước ngoài. Nghĩa là cũng được tôn trọng, cũng biết giữ những cam kết của mình, cũng thực hiện những ưu đãi cần thiết mà lâu nay chỉ dành cho các nhà đầu tư nước ngoài trong cùng lĩnh vực.
Và đặc biệt, phải có lòng tin đối với DN Việt.
Ví dụ những gói cam kết hỗ trợ kinh tế khó khăn như Covid-19 ấy, hiện nay các DN chỉ được hỗ trợ mấy chục phần trăm, và cũng rất ít DN tiếp cận được. Nhà nước hứa hẹn một gói rõ là to, nhiều tiền nhưng rốt cuộc tiền ngân sách vẫn giữ lại ở ngân sách, DN khó thì vẫn khó.
Việc nhà nước ưu tiên đầu tư công mà không đưa ra những cam kết thúc đẩy đầu tư cho khu vực tư nhân tương tự, cũng gây khó cho DN tư nhân. Như hiện nay nhà nước đang thúc đẩy một loạt các dự án hạ tầng nhưng đặt ra những điều kiện ngặt nghèo đối với khu vực tư; kêu gọi hợp tác công tư, nhưng điều này tôi nghĩ khó thực hiện được bởi các DN tư họ khó có thể tham gia đấu thầu một cách sòng phẳng được. Dù chúng ta biết rằng hiệu quả của nhiều dự án nhà nước làm đâu có bằng tư, kể cả các dự án làm hạ tầng, tuy nhiên vai trò của tư nhân trong các hoạt động này vẫn rất ít do những điều kiện đặt ra đối với họ vẫn còn khó khăn hơn nhiều so với DN nhà nước hay là so với nhà đầu tư nước ngoài.
Chúng ta hay nói về sự công bằng giữa các doanh nghiệp, nhưng đó thực ra là chuyện “tuyết rơi giữa mùa hè”, mà kẻ gánh chịu bất hợp lý nhất chính là DN nhỏ và vừa, trong khi lực lượng này chiếm giữ vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế hiện nay. Câu chuyện sức mạnh nội lực ở thực tế Việt Nam, khách quan mà nói, không phải nằm ở các “Thánh Gióng” mà chính là DN vừa và nhỏ. Không bảo vệ được họ thì sự rạn vỡ của bức tranh kinh tế sẽ nguy hơn, nhanh hơn khi những ông lớn bị đổ…
Tôi cho cái cơ bản nhất vẫn là phải làm sao tạo môi trường thuận lợi và công bằng cho các DN để cho họ làm ăn được. Trước hết ưu tiên hỗ trợ cho các DN nhỏ và vừa để họ đứng chân được. Chúng ta đừng coi thường các DN nhỏ và vừa, Việt Nam đang thiếu vắng hẳn những ngành công nghiệp phụ trợ cần thiết để tham gia được vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo được nhiều giá trị hơn cho Việt Nam. Cái này chỉ thực hiện được ở quy mô của DN nhỏ và vừa. Đừng để các DN nhỏ và vừa “chết hẳn” hoặc phải bán mình trong các thương vụ M&A nhiều như trong thời gian vừa qua.
Nếu buộc phải bán đi, chúng ta phải luôn tìm mọi cách để giải bài toán liên kết để DN nội địa tham gia vào các hoạt động của DN nước ngoài để học hỏi mà lớn lên, chứ không phải chỉ là tham gia ban đầu liên doanh mấy chục phần trăm nhưng theo thời gian cứ rơi rụng dần dần, với kết cục một trăm phần trăm cổ phần rơi vào tay nhà đầu tư nước ngoài.
Tôi cho rằng cái này mình phải học Trung Quốc. Trung Quốc bây giờ công nghệ lên biết bao nhiêu, các ngành công nghiệp phát triển lên biết bao nhiêu để đến Mỹ và tất cả các nước lớn khác trên thế giới đều phải e ngại. Đó là nhờ ngay từ đầu trong đầu tư nước ngoài, họ đã biết cách làm thế nào bảo vệ và tạo điều kiện cho các DN trong nước tham gia để học hỏi, để biến những sức mạnh từ bên ngoài thành sức mạnh của mình.
Vì DN của họ có nội lực. Muốn có thể tự chủ thì các DN phải không ngừng gia tăng nội lực của mình.
‘Bơm thuốc’ tái cơ cấu và nên ‘trong nhà sáp nhập với nhau’
Có ý kiến cho rằng, nhà nước nên mua lại hoặc tạo điều kiện thuận lợi nhất để các DN trong nước thực hiện các thương vụ M&A với nhau, đây cũng là điều cần thiết để bảo vệ thương hiệu Việt?
Tôi nghĩ phương án nhà nước mua lại là rất khó. Nếu mua lại thì nhà nước vận hành như thế nào? Trước đây nhà nước đã từng mua lại ngân hàng 0 đồng đấy thôi, nhưng rốt cuộc có giải quyết được gì đâu? Vẫn là cả một khối nợ rất lớn để đấy.
Kể ra thì cách tốt nhất bây giờ là nếu nhà nước đã có tiền mua lại thì nhà nước có thể dành khoản đó cho DN vay tiền với lãi suất thấp, dài hạn, trợ giúp cho họ tái cơ cấu. Thứ hai nữa là nhà nước hoàn toàn có thể khuyến khích để các công ty khác của Việt Nam có nguồn lực tốt tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi nhanh chóng khi mua lại DN trong nước. Điều này sẽ góp phần để các DN trong nước không “quay xe” đi tìm nhà đầu tư nước ngoài để bán.
Tôi nghĩ là trong cùng ngành, trong cùng lĩnh vực, bao giờ cũng thế, có DN mạnh hơn có DN yếu hơn. DN mạnh hơn, nếu như có điều kiện họ mua lại DN cùng ngành để họ mở rộng ra, tăng quy mô sản xuất kinh doanh, có thêm sản phẩm mới hoặc là có thêm hệ thống tiêu thụ mà DN kia đang có và đang khó không sử dụng hết, không sử dụng được thì người ta có thể mua lại được.
Nếu DN trong nước có thể mua lại được, thì DN dù bị bán đi vẫn là của Việt Nam, hoặc Việt Nam liên doanh với nhau. Thực ra trong thời gian vừa qua chúng ta đã thấy có những trường hợp như Vinamilk chẳng hạn, mua lại công ty sữa Mộc Châu thì cũng vẫn vận hành rất tốt, vừa tăng quy mô sản xuất của Vinamilk. Nếu công ty sữa Mộc Châu khó khăn mà bán cho nước ngoài, thì chúng ta mất đi một tài sản, một dòng sản phẩm nội địa đã có thị trường tốt, tăng thêm sự cạnh tranh giữa các sản phẩm sữa trong nước.
Đây cũng là hoạt động mua bán sáp nhập, nhưng do DN Việt Nam thực hiện và nó khác hẳn so với tập đoàn nước ngoài mua lại. Cái đó thực sự là sáp nhập chứ không chỉ đơn thuần là mua lại của nhau, để cùng nhau làm, qua đó nâng giá trị doanh nghiệp Việt lên. Nếu bán đứt cho nước ngoài thì chúng ta mất đi một thương hiệu Việt trên thị trường.
Điều này cũng cần các DN có nhu cầu bán đi đăng ký với các cơ quan nhà nước, hoặc các kênh từ ngân hàng và chuyên gia cùng nhau đánh giá để có phương án hỗ trợ các DN trong nước ngồi lại với nhau để đưa ra giải pháp xử lý nội bộ. Bên cạnh đó, DN muốn bán thì nên chào bán một cách công khai, rộng rãi hơn là tự mình đi tìm đối tác để đàm phán riêng bởi như vậy DN sẽ ở vị thế kém hơn nhiều.
Việt Nam hiện nay quy mô kinh tế đứng khoảng thứ 35 trên thế giới, quy mô đâu có nhỏ. Tôi nghĩ với dân số trên 100 triệu dân, mức sống càng ngày càng được tăng lên, GDP tăng lên thì quy mô thị trường nội địa cũng tăng lên đáng kể để nuôi dưỡng lâu dài DN nhỏ và vừa trong nước. Họ có thể yên tâm làm ở thị trường nội địa trước khi hướng đến xuất khẩu. Ngay cả DN xuất khẩu cũng có thể có thêm thị trường trong nước để làm cả hai, chứ không chỉ dồn hết nguồn lực để xuất khẩu.
Nếu có thể chia sẻ tâm tư, thì bà gửi gắm gì cho các DN trong nước?
Tôi chỉ mong là các DN giữ niềm tin của mình và nên rộng mở tìm kiếm thêm các nguồn hợp tác, liên kết nội địa để cùng nhau phát triển. Tôi mong là các cơ quan liên quan không phải chỉ nhà nước, mà còn các viện nghiên cứu, các trường đại học, các hiệp hội doanh nghiệp nữa… cùng nhau chung tay, quan sát doanh nghiệp nhiều hơn, chú ý theo dõi họ nhiều hơn kể cả đối với các DN đã tương đối trưởng thành nhưng hiện nay đang gặp khó khăn, để có thể kịp thời bàn bạc mà giúp đỡ họ. Tôi vẫn tin là có giải pháp để có thể giúp họ thay đổi tốt hơn mà không nhất thiết phải bán mình cho các DN nước ngoài. Dù sao, các DN trong nước, vượt qua khó khăn, tồn tại và sống khỏe chính là chỉ dấu nội lực của nền kinh tế Việt Nam.
Nguồn: Nông thôn Việt