Chuyện làm ăn

Tôm Việt: Cần cảnh tỉnh ở tầm quốc gia!

Doanh nhân Nguyễn Hoàng Anh là người sáng lập và dẫn dắt Công ty TNHH Đầu tư thủy sản Nam Miền Trung – một thương hiệu đầu ngành tôm giống suốt 27 năm qua. Ông cũng là Chủ tịch Hiệp hội Tôm Bình Thuận, Phó chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam. Trong buổi Cà phê với Nông thôn Việt lần này, ông mang đến một bức tranh nông nghiệp ở tầm chiến lược quốc gia, thông qua một câu chuyện tưởng là chuyện cái tôm cái tép…

‘Sự nhỏ lẻ, manh mún đã đi vào tư duy con người’

Phóng viên: Được biết anh vừa trở về từ Bạc Liêu. Không biết Bạc Liêu những ngày này có gì vui với một người đầy khát vọng với con tôm?

Ông Nguyễn Hoàng Anh: Tôi đi Bạc Liêu lần này là dịp Nam Miền Trung khai trương chi nhánh mới. Giai đoạn này ngành tôm Việt Nam đang có một không khí rất tích cực do tôm đang lên giá. Đây cũng là vụ thuận lợi trong năm. Nông dân hăng say vào mùa.

Nông dân vào mùa thì có lẽ con tôm giống đang là chủ đề được quan tâm phải không anh?

Advertisement

Ông bà ta hay nói “nhất giống”, trong ngành tôm, giống cũng rất quan trọng. Người Việt rất giỏi trong việc tiếp cận sự thay đổi về giống. Nếu biết ở đâu trên thế giới có cái mới cái hay, thì Việt Nam cũng sẽ nhanh chóng có. Vấn đề còn lại là chất lượng. Theo tôi thấy, những người vốn có khả năng đi đầu, họ sẽ luôn chủ động được về chất lượng. Nhưng sự thật là bối cảnh ngành nông nghiệp ở Việt Nam ta còn đang manh mún.

Hình như chỗ này đang có nghịch lý, người dân Việt Nam giỏi, tiếp cận nhanh nhưng ngành nông nghiệp lại manh mún. Đó là thực trạng chung của ngành nông nghiệp hay của riêng ngành tôm?

Đó là thực trạng chung của cả ngành nông nghiệp. Chính vì manh mún nên dù có làm tốt cỡ nào, hiện đại cỡ nào thì khi áp dụng vẫn gặp rào cản.

Tôi lấy ví dụ, nếu canh tác trên diện tích tính bằng hec-ta thì ta cần đầu tư 10 triệu đồng, nhưng nếu làm quy mô lớn hơn thì chi phí thấp xuống còn chỉ 3 triệu đồng/hec-ta.

Sự manh mún khiến ta vướng ở cả 3 khía cạnh. Thứ nhất, là tiêu chuẩn: khi chưa đủ công nghệ thì tiêu chuẩn chất lượng của ta không thể cao được. Thứ hai là sản lượng hạn chế vì quy mô nhỏ. Và giá bán không thể cao. Đây là bất lợi lớn trong cạnh tranh.

Advertisement

Tôi có dịp ghé thăm và được ông chủ một trang trại trồng atiso ở Mỹ lấy máy bay trực thăng chở đi thăm đồng. Cánh đồng atiso bạt ngàn, rộng 10 ngàn arce (mẫu Anh, 1 arce = 0,4 hec-ta – PV). Tôi liền gọi về Lâm Đồng thì được cho biết, cả Lâm Đồng chỉ có hơn 2 ngàn hec-ta atiso, tức bằng một nửa diện tích của người nông dân Mỹ này. Vậy mà khi ở Việt Nam, ta cứ tưởng atiso là đặc sản thế mạnh. Trong khi một người trồng được 5 ngàn hec-ta thì sẽ đồng nhất về tiêu chuẩn chất lượng, giá thành đầu tư thấp hơn nhiều so với việc chia nhỏ diện tích đó ra cho 500 người nông dân làm.

Vậy để thấy, tất cả sản phẩm của nông nghiệp Việt Nam từ nhỏ lẻ, manh mún thì giá thành sản xuất sẽ cao, mà lại không có lợi thế cạnh tranh với sản phẩm cùng loại trên thế giới.

Theo anh điều này xuất phát từ đâu?

Thực tế là chúng ta ít đất, mà người đông. Nhưng không có nghĩa là ta phải chấp nhận. Người ta có đất rộng, thì ta có công nghệ. Cùng 1 đơn vị diện tích mà khi tập trung, áp dụng công nghệ và đồng bộ cơ chế chính sách; ta có thể sản xuất ra sản lượng gấp 10 lần.

Tôi chỉ tiếc là sự manh mún, nhỏ lẻ đã đi vào tư duy con người. Từ hoạch định chính sách, đầu tư, cho tới các thành tố trong ngành đều chưa đồng bộ. Ta cũng chưa có sự tuân thủ để đạt công bằng trong chính sách.

Advertisement

Câu chuyện anh kể có thể hình dung thế này không, rằng chúng ta có giấc mơ, và cũng có những trải nghiệm, nỗ lực trong thực tế. Như thời Công tử Bạc Liêu, ông từng du học Pháp, cũng từng mua máy bay trực thăng để đi thăm ruộng. Từ đó đến nay cũng có không ít nông dân tự vươn mình ra để tiếp cận với tiến bộ nông nghiệp trên thế giới. Nhưng ở khía cạnh khác thì các chính sách của ta có vẻ như lại đang được xây dựng theo hướng từ trên xuống…

Áp dụng khoa học công nghệ cũng là khát vọng của tôi khi tham gia ngành nông nghiệp, nhất là với vai trò lãnh đạo Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam, hưởng ứng Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị. Đây là nghị quyết về cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặt trọng tâm vào kinh tế số, áp dụng khoa học công nghệ – rất phù hợp với sự phát triển trên thế giới và khiến cho những doanh nhân như tôi thấy rất hào hứng. Về nông nghiệp, vì diện tích ta nhỏ nên càng phải quan tâm đến khoa học công nghệ, mà trước hết là công nghệ số.

Nhưng muốn thay đổi ngành nông nghiệp Việt Nam thì nhất thiết phải có sự quy hoạch bài bản. Phải bắt đầu từ việc chọn những sản phẩm lợi thế mà ta có đủ dữ liệu so sánh. FAO – tổ chức Nông lương thế giới luôn cập nhật tình hình hoạt động nông lương thế giới hàng năm. Vậy Việt Nam có bao nhiêu sản phẩm lợi thế so với thế giới? Chọn được rồi thì tập trung xác định: đầu tư giá trị bao nhiêu, tiêu chuẩn thế nào, thương hiệu xây dựng ra sao, và xác định thị phần để cung cấp.

Nỗi đau có giá trị, thương hiệu, nhưng không có tiêu chuẩn

Ngoài tư duy hệ thống thì tính tuân thủ thị trường cũng khá quan trọng. Ta có thể hình dung một sự phân tầng trong thị trường như vậy không: rằng có một nhóm bằng sự hiểu biết của mình – họ tuân thủ tiêu chuẩn, và có một thị trường dưới chuẩn?

Ngành tôm có một đặc thù là ngành công nghệ sinh học rất cao. Trong môi trường sống của con tôm, nguy cơ dịch bệnh rất lớn, chỉ có cách tuân thủ các nguyên tắc an toàn sinh học. Ở Nam Miền Trung, chúng tôi đầu tư từng công đoạn chuẩn mực, kiểm soát bằng khoa học công nghệ, tuân thủ một quy trình rất chặt chẽ.

Advertisement

Nhưng một mình Nam Miền Trung làm là không đủ. Cần có sự đồng bộ trong ngành tôm. Vì vậy, tôi luôn có khát vọng chia sẻ cách làm đúng, nhưng việc tiếp nhận lại phụ thuộc vào khả năng của từng người, nhất là khi ta không có cơ chế đồng bộ để hỗ trợ người dân làm đúng.

Nhưng đây không phải chuyện riêng của con tôm. Gần đây, sầu riêng Việt Nam bắt đầu nổi tiếng khi được thị trường Trung Quốc đón nhận tích cực. Và rồi nhà nào, nơi nào cũng trồng sầu riêng. Nhưng cái đáng lo là ta trồng mà không có tiêu chuẩn. Nỗi đau của nông nghiệp Việt bây giờ là đã xây dựng được thương hiệu, nhưng không xây dựng được tiêu chuẩn. Từ việc nuôi trồng cho đến thương mại đều dễ bát nháo, rủi ro, khó tránh nguy cơ phải… giải cứu.

27 năm qua, anh từng thấy kịch bản này diễn ra trong ngành tôm không?

Ngành tôm có một cái may mắn như ông bà ta hay nói là “đắt như tôm tươi”. Con tôm không bao giờ phải giải cứu vì đó là sản phẩm của thế giới. Tôm khác với tất cả các nông sản khác. Từ thịt bò, thịt heo cho tới các loại trái cây thì thị trường cũng khác nhau ở từng nước, riêng con tôm thì nước nào cũng sử dụng. Thị trường tôm rộng như vậy nhưng chỉ có một vài nước nuôi được tôm. Việt Nam lại đứng hàng số 2, 3 trong số ít các nước đó. Đây là một lợi thế rất lớn.

Riêng ở thị trường trong nước, cứ 100 con tôm được tiêu thụ thì đã có 67 con tôm được nuôi trồng, đánh bắt tự nhiên chỉ chiếm 33%. Giá trị của con tôm còn tập trung rất lớn ở phần giá trị gia tăng. Vỏ tôm là nguyên liệu để làm ra hai loại chất là chitosan và astaxanthin có giá trị rất lớn trên thế giới. Lấy ví dụ con tôm xuất khẩu với giá trị 5 tỷ đô thì riêng phần vỏ tôm đã có thể tạo ra giá trị 5 tỷ đô rồi.

Advertisement

Ta vẫn biết giá trị từ tôm còn rất lớn, ai ai cũng ăn tôm, nhưng lại chưa ứng xử với nó cho có mục tiêu. (cười)

Thế nào gọi là ứng xử với con tôm cho có mục tiêu, thưa anh?

Là phải có quy hoạch rõ ràng. Phải có chiến lược ở tầm vĩ mô. Ví dụ, ta quy hoạch 1 năm nuôi 100 tỷ con tôm giống. Khi có tiêu chí, chất lượng, mục tiêu thì tiến hành chọn địa bàn lợi thế để cho ra sản phẩm đặc sắc, rồi giao cho địa phương quản lý. Đồng thời, đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ thế chính sách, kèm các chế tài cụ thể để buộc trách nhiệm cho địa phương và doanh nghiệp. Nếu làm chuẩn theo cách đó, thì ta đang xây dựng thương hiệu quốc gia chứ không phải của riêng một người nào.

Đặc biệt, khi giao KPI 100 tỷ con tôm giống thì chỉ được sản xuất 100 tỷ con tôm giống, không được sản xuất hơn. Thông tin phải thông suốt từ địa phương, doanh nghiệp cho đến người dân. Tránh tình trạng bát nháo số lượng, thiếu thông tin rồi tranh mua tranh bán. Người dân cũng rất cần thông tin chính thống, nếu không thì cứ ai nói hay, cho chính sách tốt thì họ nghe theo, làm theo.

Vậy ta cần chiến lược quốc gia ở tầm vĩ mô và cần một con đường cung cấp thông tin cho người dân ở tầm vi mô?

Advertisement

Ecuador nổi tiếng thế giới là sản xuất tôm với giá thành thấp mà hiệu quả cao. Trước khi làm được điều đó thì họ cũng như ta bây giờ. Nhưng khi ngành tôm loay hoay, cả Chính phủ Ecuador nhảy vào, họ có hẳn một đề án cấu trúc ngành tôm. Họ chọn con tôm là sản phẩm mang tầm chiến lược quốc gia, nuôi tôm có quy hoạch, chủ động giống, thức ăn, cơ chế chính sách để phục vụ. Minh chứng là hôm nay họ thành công.

Họ làm được điều đó trong bao lâu?

10 năm.

Có thể dùng bài học đó cho Việt Nam không?

Tôi thấy quá tốt, nếu như Chính phủ quan tâm. Sau dịch Covid-19 tôi đi Thái Lan. Năm 2008 – 2009, Thái Lan có tổng kim ngạch ngành tôm bằng Việt Nam hiện nay. Lúc đó ngành tôm Việt Nam chưa phát triển bằng Thái Lan. Nhưng đến bây giờ, sau hơn 10 năm thì Việt Nam vượt lên, còn Thái Lan chỉ còn 30% thời đó. Tại sao? Khi ngành tôm phát triển thì lẽ ra Thái Lan phải phát triển vì họ đi trước. Nhưng nhìn lại, lại thấy Việt Nam bây giờ giống Thái Lan hồi 2008. Họ phát triển nóng, thiếu quy hoạch, để rồi cho đến giờ họ chỉ còn 30% sản lượng. Đây là sự cảnh tỉnh lớn cho Việt Nam. Vậy bây giờ chúng ta làm gì? Theo tôi, cần có sự cảnh tỉnh ở tầm quốc gia.

Advertisement

Nếu ta đã thay đổi lựa chọn, không còn quan tâm đến con tôm nữa thì thôi. Còn một khi vẫn chọn con tôm làm sản phẩm chiến lược để phát triển, thì nhất thiết phải có quy hoạch.

Hiện nay, Nam Miền Trung có 7 khu sản xuất tôm giống được đầu tư theo tiêu chuẩn công nghệ Mỹ, năng lực sản xuất tôm giống 15 tỷ con/năm.

Rào cản lớn nhất trong quy hoạch là gì, thưa anh?

Hiện các quy hoạch của Việt Nam luôn gặp xung đột lợi ích. Xung đột lợi ích giữa các địa phương, rồi xung đột lợi ích giữa các Bộ, ngành. Địa phương nào, ngành nào cũng thấy mình lợi thế. Vậy đâu là lợi thế quốc gia? Lợi ích quốc gia là gì?

Theo anh, đâu là cách để giải quyết xung đột?

Lời giải nằm ở Chính phủ, Đảng và nhà nước. Chỉ có sự tham gia ở cấp cao nhất thì mới hóa giải được sự xung đột lợi ích. Cần phải xác định mục tiêu mà ta mong muốn ở con tôm là gì. Mục tiêu xuất khẩu 10 tỷ đô, hay 20 tỷ đô thì phải có chiến lược tương ứng.

Cách đây 10 năm, trong một cuộc đối thoại với Thủ tướng ở Dinh Độc Lập, ta đã đặt mục tiêu 10 tỷ đô cho con tôm. Lúc đó, tôi phân tích dựa trên số liệu từ FAO và từ ông Quang Minh Phú – vua tôm, nhà xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới. Dựa trên sự tính toán logic, ta xác định mục tiêu 10 năm sau phát triển ngành tôm để đem lại giá trị 10 tỷ đô/năm. Bức tranh phát triển được bày ra rất rõ. Nhưng đó là phát triển có chiến lược.

Advertisement

Ví dụ, theo thống kê thì Việt Nam mỗi năm mất 200 ngàn hec-ta đất nông nghiệp do biến đổi khí hậu. Vậy Chính phủ có thể lấy 10% diện tích đó, chọn vị trí phù hợp để đầu tư cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ đạt tiêu chuẩn – như một khu công nghệ cao về tôm. Ai muốn nuôi tôm thì đấu giá để vào nuôi, khi đó ta có sự đồng bộ về chất lượng, kiểm soát được sản lượng.

Hoặc giải pháp quan trọng nhất là tổ chức lại sản xuất, thoát khỏi tình trạng manh mún. Việc này cần xuất phát từ Bộ chủ quản, và trực tiếp bên dưới là Cục Thủy sản để xây dựng lại quy trình, quy hoạch vùng sản xuất và nhất quán thông tin, quy định qua từng địa phương, các tổ chức nghề nghiệp.

Hiện nay, các hộ nuôi tôm cũng đã năng động hơn. Ở góc độ người trực tiếp sản xuất, anh đánh giá thế nào về vai trò của bộ chủ quản?

Thực tế là Việt Nam không thiếu hoạch định, chính sách ở tầm quốc gia. Nhưng trong khâu tổ chức thì ta thiếu nguồn nhân lực, thiếu cả sự tuân thủ trong thực thi, dẫn đến tư duy ngắn hạn trong người nông dân. Đồng thời tạo ra những kẽ hở làm nản lòng những người có tâm huyết, và tạo cơ hội cho tình trạng mua gian bán lận.

Sẵn sàng trả 1 tỷ/con tôm giống nếu không đạt chất lượng

Được biết anh là Chủ tịch Hiệp hội tôm Bình Thuận, Hiệp hội cũng là một cơ quan có tiếng nói trong việc tác động chính sách. Không biết anh và Hiệp hội đã tác động hay có thông tin gì về chính sách trong tương lai gần?

Advertisement

Ở góc độ Hiệp hội, tôi luôn chia sẻ để thành viên có thông tin và triết lý sản xuất phù hợp với sự phát triển bền vững của ngành. Nhưng ngoài phạm vi Hiệp hội, tôi không thể kiểm soát được những mắt xích gian dối bắt tay nhau tạo ra những sản phẩm không chuẩn. Đây chính là những mắt xích phá hoại ngành tôm.

Chúng ta có 2 bài học nhãn tiền và đầy sức cảnh tỉnh là Ecuador và Thái Lan để hình dung về vai trò của nhà nước, của chiến lược quốc gia lên ngành hàng tiềm năng này. Hai bài học này luôn làm tôi ám ảnh. Ở Nam Miền Trung tôi đã thực hiện việc quy hoạch và đồng bộ tiêu chuẩn với xác quyết con tôm là sản phẩm chiến lược. Và tôi đã thể hiện rằng mình làm được.

Tôi cũng đã gửi gắm lên cơ quan chủ quản yêu cầu phải cấu trúc nhanh ngành tôm, phân tích về việc tổ chức sản xuất đồng bộ, có KPI và đề xuất việc quy hoạch vùng sản xuất đặc sắc, đặc sản cho từng sản phẩm tôm giống, tôm thương phẩm. Đồng thời, nhấn mạnh việc xây dựng tiêu chuẩn, xây dựng kênh thông tin đồng bộ, liên tục cho người dân.

Những chuẩn mực Nam Miền Trung thiết lập đã tạo niềm tin của người dân nuôi tôm trong một phạm vi nhất định. Nhưng, phần đông vẫn đang đối diện với cách làm gian dối, thiếu chuẩn mực. Anh có nghĩ nguyên nhân một phần là do mình thiếu kênh truyền thông không?

Đúng vậy. Nhưng nếu chỉ truyền thông từ các doanh nghiệp thì sẽ không có tính tác động. Ta rất cần một hệ thống truyền thông chính thống cùng vào cuộc. Phương tiện truyền thông của Việt Nam hiện rất đa dạng, hoàn toàn có thể làm được việc này, quan trọng là ta phải có sự thống nhất ở tầm vĩ mô để tổ chức truyền thông. Tôi rất đau đáu về thị trường khi con tôm giống ra khỏi cánh cổng Nam Miền Trung. Bên trong cánh cổng, chúng tôi đã chuẩn hóa từng công đoạn và quản lý tiêu chuẩn chất lượng bằng khoa học công nghệ. Những tiêu chuẩn này được định lượng rất cụ thể qua xét nghiệm. Tại Nam Miền Trung, nếu phát hiện con tôm giống nào không đạt chuẩn, tôi sẵn sàng trả 1 tỷ đồng cho con tôm đó. Nhưng một khi con tôm giống đi ra khỏi cổng Nam Miền Trung, tôi không còn kiểm soát được nữa. Chất lượng sản phẩm của toàn ngành không thể được quyết định bởi một doanh nghiệp.

Advertisement

Vì vậy, vẫn phải nhấn mạnh rằng, nếu xác định con tôm là sản phẩm hàng hóa có giá trị tỷ đô, thì hãy ngừng đối xử với nó như chuyện cái tôm cái tép. Phải xem đó là một sản phẩm hàng hóa, phải hoạch định chiến lược và nhất quán với mục tiêu đó.

Có thể thấy, khát vọng của Nam Miền Trung vượt ra khỏi quy trình sản xuất tôm giống của đơn vị, mà dài theo vòng đời của con tôm thương phẩm Việt Nam. Và khát vọng của Nguyễn Hoàng Anh không giới hạn trong sự phát triển của một doanh nghiệp, mà mang tầm thương hiệu nước nhà, với những trăn trở về chiến lược quốc gia. Những chia sẻ của anh với Nông thôn Việt cũng là một cách để thông tin khi ta chưa thể chờ sự vào cuộc của cả một hệ thống truyền thông. Nông thôn Việt xin chia sẻ và đồng hành cùng anh và các doanh nhân có tâm huyết trong khát vọng phát triển ngành hàng tỷ đô này. Cảm ơn anh!

Nguồn: Nông thôn Việt

Advertisement

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Được quan tâm

Exit mobile version