Chuyện làm ăn
Tôm Việt: Cần cảnh tỉnh ở tầm quốc gia!

Doanh nhân Nguyễn Hoàng Anh là người sáng lập và dẫn dắt Công ty TNHH Đầu tư thủy sản Nam Miền Trung – một thương hiệu đầu ngành tôm giống suốt 27 năm qua. Ông cũng là Chủ tịch Hiệp hội Tôm Bình Thuận, Phó chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam. Trong buổi Cà phê với Nông thôn Việt lần này, ông mang đến một bức tranh nông nghiệp ở tầm chiến lược quốc gia, thông qua một câu chuyện tưởng là chuyện cái tôm cái tép…
‘Sự nhỏ lẻ, manh mún đã đi vào tư duy con người’
Phóng viên: Được biết anh vừa trở về từ Bạc Liêu. Không biết Bạc Liêu những ngày này có gì vui với một người đầy khát vọng với con tôm?
Ông Nguyễn Hoàng Anh: Tôi đi Bạc Liêu lần này là dịp Nam Miền Trung khai trương chi nhánh mới. Giai đoạn này ngành tôm Việt Nam đang có một không khí rất tích cực do tôm đang lên giá. Đây cũng là vụ thuận lợi trong năm. Nông dân hăng say vào mùa.
Nông dân vào mùa thì có lẽ con tôm giống đang là chủ đề được quan tâm phải không anh?
Ông bà ta hay nói “nhất giống”, trong ngành tôm, giống cũng rất quan trọng. Người Việt rất giỏi trong việc tiếp cận sự thay đổi về giống. Nếu biết ở đâu trên thế giới có cái mới cái hay, thì Việt Nam cũng sẽ nhanh chóng có. Vấn đề còn lại là chất lượng. Theo tôi thấy, những người vốn có khả năng đi đầu, họ sẽ luôn chủ động được về chất lượng. Nhưng sự thật là bối cảnh ngành nông nghiệp ở Việt Nam ta còn đang manh mún.
Hình như chỗ này đang có nghịch lý, người dân Việt Nam giỏi, tiếp cận nhanh nhưng ngành nông nghiệp lại manh mún. Đó là thực trạng chung của ngành nông nghiệp hay của riêng ngành tôm?
Đó là thực trạng chung của cả ngành nông nghiệp. Chính vì manh mún nên dù có làm tốt cỡ nào, hiện đại cỡ nào thì khi áp dụng vẫn gặp rào cản.
Tôi lấy ví dụ, nếu canh tác trên diện tích tính bằng hec-ta thì ta cần đầu tư 10 triệu đồng, nhưng nếu làm quy mô lớn hơn thì chi phí thấp xuống còn chỉ 3 triệu đồng/hec-ta.
Sự manh mún khiến ta vướng ở cả 3 khía cạnh. Thứ nhất, là tiêu chuẩn: khi chưa đủ công nghệ thì tiêu chuẩn chất lượng của ta không thể cao được. Thứ hai là sản lượng hạn chế vì quy mô nhỏ. Và giá bán không thể cao. Đây là bất lợi lớn trong cạnh tranh.
Tôi có dịp ghé thăm và được ông chủ một trang trại trồng atiso ở Mỹ lấy máy bay trực thăng chở đi thăm đồng. Cánh đồng atiso bạt ngàn, rộng 10 ngàn arce (mẫu Anh, 1 arce = 0,4 hec-ta – PV). Tôi liền gọi về Lâm Đồng thì được cho biết, cả Lâm Đồng chỉ có hơn 2 ngàn hec-ta atiso, tức bằng một nửa diện tích của người nông dân Mỹ này. Vậy mà khi ở Việt Nam, ta cứ tưởng atiso là đặc sản thế mạnh. Trong khi một người trồng được 5 ngàn hec-ta thì sẽ đồng nhất về tiêu chuẩn chất lượng, giá thành đầu tư thấp hơn nhiều so với việc chia nhỏ diện tích đó ra cho 500 người nông dân làm.
Vậy để thấy, tất cả sản phẩm của nông nghiệp Việt Nam từ nhỏ lẻ, manh mún thì giá thành sản xuất sẽ cao, mà lại không có lợi thế cạnh tranh với sản phẩm cùng loại trên thế giới.
Theo anh điều này xuất phát từ đâu?
Thực tế là chúng ta ít đất, mà người đông. Nhưng không có nghĩa là ta phải chấp nhận. Người ta có đất rộng, thì ta có công nghệ. Cùng 1 đơn vị diện tích mà khi tập trung, áp dụng công nghệ và đồng bộ cơ chế chính sách; ta có thể sản xuất ra sản lượng gấp 10 lần.
Tôi chỉ tiếc là sự manh mún, nhỏ lẻ đã đi vào tư duy con người. Từ hoạch định chính sách, đầu tư, cho tới các thành tố trong ngành đều chưa đồng bộ. Ta cũng chưa có sự tuân thủ để đạt công bằng trong chính sách.
Câu chuyện anh kể có thể hình dung thế này không, rằng chúng ta có giấc mơ, và cũng có những trải nghiệm, nỗ lực trong thực tế. Như thời Công tử Bạc Liêu, ông từng du học Pháp, cũng từng mua máy bay trực thăng để đi thăm ruộng. Từ đó đến nay cũng có không ít nông dân tự vươn mình ra để tiếp cận với tiến bộ nông nghiệp trên thế giới. Nhưng ở khía cạnh khác thì các chính sách của ta có vẻ như lại đang được xây dựng theo hướng từ trên xuống…
Áp dụng khoa học công nghệ cũng là khát vọng của tôi khi tham gia ngành nông nghiệp, nhất là với vai trò lãnh đạo Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam, hưởng ứng Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị. Đây là nghị quyết về cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặt trọng tâm vào kinh tế số, áp dụng khoa học công nghệ – rất phù hợp với sự phát triển trên thế giới và khiến cho những doanh nhân như tôi thấy rất hào hứng. Về nông nghiệp, vì diện tích ta nhỏ nên càng phải quan tâm đến khoa học công nghệ, mà trước hết là công nghệ số.
Nhưng muốn thay đổi ngành nông nghiệp Việt Nam thì nhất thiết phải có sự quy hoạch bài bản. Phải bắt đầu từ việc chọn những sản phẩm lợi thế mà ta có đủ dữ liệu so sánh. FAO – tổ chức Nông lương thế giới luôn cập nhật tình hình hoạt động nông lương thế giới hàng năm. Vậy Việt Nam có bao nhiêu sản phẩm lợi thế so với thế giới? Chọn được rồi thì tập trung xác định: đầu tư giá trị bao nhiêu, tiêu chuẩn thế nào, thương hiệu xây dựng ra sao, và xác định thị phần để cung cấp.
Nỗi đau có giá trị, thương hiệu, nhưng không có tiêu chuẩn
Ngoài tư duy hệ thống thì tính tuân thủ thị trường cũng khá quan trọng. Ta có thể hình dung một sự phân tầng trong thị trường như vậy không: rằng có một nhóm bằng sự hiểu biết của mình – họ tuân thủ tiêu chuẩn, và có một thị trường dưới chuẩn?
Ngành tôm có một đặc thù là ngành công nghệ sinh học rất cao. Trong môi trường sống của con tôm, nguy cơ dịch bệnh rất lớn, chỉ có cách tuân thủ các nguyên tắc an toàn sinh học. Ở Nam Miền Trung, chúng tôi đầu tư từng công đoạn chuẩn mực, kiểm soát bằng khoa học công nghệ, tuân thủ một quy trình rất chặt chẽ.
Nhưng một mình Nam Miền Trung làm là không đủ. Cần có sự đồng bộ trong ngành tôm. Vì vậy, tôi luôn có khát vọng chia sẻ cách làm đúng, nhưng việc tiếp nhận lại phụ thuộc vào khả năng của từng người, nhất là khi ta không có cơ chế đồng bộ để hỗ trợ người dân làm đúng.
Nhưng đây không phải chuyện riêng của con tôm. Gần đây, sầu riêng Việt Nam bắt đầu nổi tiếng khi được thị trường Trung Quốc đón nhận tích cực. Và rồi nhà nào, nơi nào cũng trồng sầu riêng. Nhưng cái đáng lo là ta trồng mà không có tiêu chuẩn. Nỗi đau của nông nghiệp Việt bây giờ là đã xây dựng được thương hiệu, nhưng không xây dựng được tiêu chuẩn. Từ việc nuôi trồng cho đến thương mại đều dễ bát nháo, rủi ro, khó tránh nguy cơ phải… giải cứu.
27 năm qua, anh từng thấy kịch bản này diễn ra trong ngành tôm không?
Ngành tôm có một cái may mắn như ông bà ta hay nói là “đắt như tôm tươi”. Con tôm không bao giờ phải giải cứu vì đó là sản phẩm của thế giới. Tôm khác với tất cả các nông sản khác. Từ thịt bò, thịt heo cho tới các loại trái cây thì thị trường cũng khác nhau ở từng nước, riêng con tôm thì nước nào cũng sử dụng. Thị trường tôm rộng như vậy nhưng chỉ có một vài nước nuôi được tôm. Việt Nam lại đứng hàng số 2, 3 trong số ít các nước đó. Đây là một lợi thế rất lớn.
Riêng ở thị trường trong nước, cứ 100 con tôm được tiêu thụ thì đã có 67 con tôm được nuôi trồng, đánh bắt tự nhiên chỉ chiếm 33%. Giá trị của con tôm còn tập trung rất lớn ở phần giá trị gia tăng. Vỏ tôm là nguyên liệu để làm ra hai loại chất là chitosan và astaxanthin có giá trị rất lớn trên thế giới. Lấy ví dụ con tôm xuất khẩu với giá trị 5 tỷ đô thì riêng phần vỏ tôm đã có thể tạo ra giá trị 5 tỷ đô rồi.
Ta vẫn biết giá trị từ tôm còn rất lớn, ai ai cũng ăn tôm, nhưng lại chưa ứng xử với nó cho có mục tiêu. (cười)
Thế nào gọi là ứng xử với con tôm cho có mục tiêu, thưa anh?
Là phải có quy hoạch rõ ràng. Phải có chiến lược ở tầm vĩ mô. Ví dụ, ta quy hoạch 1 năm nuôi 100 tỷ con tôm giống. Khi có tiêu chí, chất lượng, mục tiêu thì tiến hành chọn địa bàn lợi thế để cho ra sản phẩm đặc sắc, rồi giao cho địa phương quản lý. Đồng thời, đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ thế chính sách, kèm các chế tài cụ thể để buộc trách nhiệm cho địa phương và doanh nghiệp. Nếu làm chuẩn theo cách đó, thì ta đang xây dựng thương hiệu quốc gia chứ không phải của riêng một người nào.
Đặc biệt, khi giao KPI 100 tỷ con tôm giống thì chỉ được sản xuất 100 tỷ con tôm giống, không được sản xuất hơn. Thông tin phải thông suốt từ địa phương, doanh nghiệp cho đến người dân. Tránh tình trạng bát nháo số lượng, thiếu thông tin rồi tranh mua tranh bán. Người dân cũng rất cần thông tin chính thống, nếu không thì cứ ai nói hay, cho chính sách tốt thì họ nghe theo, làm theo.
Vậy ta cần chiến lược quốc gia ở tầm vĩ mô và cần một con đường cung cấp thông tin cho người dân ở tầm vi mô?
Ecuador nổi tiếng thế giới là sản xuất tôm với giá thành thấp mà hiệu quả cao. Trước khi làm được điều đó thì họ cũng như ta bây giờ. Nhưng khi ngành tôm loay hoay, cả Chính phủ Ecuador nhảy vào, họ có hẳn một đề án cấu trúc ngành tôm. Họ chọn con tôm là sản phẩm mang tầm chiến lược quốc gia, nuôi tôm có quy hoạch, chủ động giống, thức ăn, cơ chế chính sách để phục vụ. Minh chứng là hôm nay họ thành công.
Họ làm được điều đó trong bao lâu?
10 năm.
Có thể dùng bài học đó cho Việt Nam không?
Tôi thấy quá tốt, nếu như Chính phủ quan tâm. Sau dịch Covid-19 tôi đi Thái Lan. Năm 2008 – 2009, Thái Lan có tổng kim ngạch ngành tôm bằng Việt Nam hiện nay. Lúc đó ngành tôm Việt Nam chưa phát triển bằng Thái Lan. Nhưng đến bây giờ, sau hơn 10 năm thì Việt Nam vượt lên, còn Thái Lan chỉ còn 30% thời đó. Tại sao? Khi ngành tôm phát triển thì lẽ ra Thái Lan phải phát triển vì họ đi trước. Nhưng nhìn lại, lại thấy Việt Nam bây giờ giống Thái Lan hồi 2008. Họ phát triển nóng, thiếu quy hoạch, để rồi cho đến giờ họ chỉ còn 30% sản lượng. Đây là sự cảnh tỉnh lớn cho Việt Nam. Vậy bây giờ chúng ta làm gì? Theo tôi, cần có sự cảnh tỉnh ở tầm quốc gia.
Nếu ta đã thay đổi lựa chọn, không còn quan tâm đến con tôm nữa thì thôi. Còn một khi vẫn chọn con tôm làm sản phẩm chiến lược để phát triển, thì nhất thiết phải có quy hoạch.

Hiện nay, Nam Miền Trung có 7 khu sản xuất tôm giống được đầu tư theo tiêu chuẩn công nghệ Mỹ, năng lực sản xuất tôm giống 15 tỷ con/năm.
Rào cản lớn nhất trong quy hoạch là gì, thưa anh?
Hiện các quy hoạch của Việt Nam luôn gặp xung đột lợi ích. Xung đột lợi ích giữa các địa phương, rồi xung đột lợi ích giữa các Bộ, ngành. Địa phương nào, ngành nào cũng thấy mình lợi thế. Vậy đâu là lợi thế quốc gia? Lợi ích quốc gia là gì?
Theo anh, đâu là cách để giải quyết xung đột?
Lời giải nằm ở Chính phủ, Đảng và nhà nước. Chỉ có sự tham gia ở cấp cao nhất thì mới hóa giải được sự xung đột lợi ích. Cần phải xác định mục tiêu mà ta mong muốn ở con tôm là gì. Mục tiêu xuất khẩu 10 tỷ đô, hay 20 tỷ đô thì phải có chiến lược tương ứng.
Cách đây 10 năm, trong một cuộc đối thoại với Thủ tướng ở Dinh Độc Lập, ta đã đặt mục tiêu 10 tỷ đô cho con tôm. Lúc đó, tôi phân tích dựa trên số liệu từ FAO và từ ông Quang Minh Phú – vua tôm, nhà xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới. Dựa trên sự tính toán logic, ta xác định mục tiêu 10 năm sau phát triển ngành tôm để đem lại giá trị 10 tỷ đô/năm. Bức tranh phát triển được bày ra rất rõ. Nhưng đó là phát triển có chiến lược.
Ví dụ, theo thống kê thì Việt Nam mỗi năm mất 200 ngàn hec-ta đất nông nghiệp do biến đổi khí hậu. Vậy Chính phủ có thể lấy 10% diện tích đó, chọn vị trí phù hợp để đầu tư cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ đạt tiêu chuẩn – như một khu công nghệ cao về tôm. Ai muốn nuôi tôm thì đấu giá để vào nuôi, khi đó ta có sự đồng bộ về chất lượng, kiểm soát được sản lượng.
Hoặc giải pháp quan trọng nhất là tổ chức lại sản xuất, thoát khỏi tình trạng manh mún. Việc này cần xuất phát từ Bộ chủ quản, và trực tiếp bên dưới là Cục Thủy sản để xây dựng lại quy trình, quy hoạch vùng sản xuất và nhất quán thông tin, quy định qua từng địa phương, các tổ chức nghề nghiệp.
Hiện nay, các hộ nuôi tôm cũng đã năng động hơn. Ở góc độ người trực tiếp sản xuất, anh đánh giá thế nào về vai trò của bộ chủ quản?
Thực tế là Việt Nam không thiếu hoạch định, chính sách ở tầm quốc gia. Nhưng trong khâu tổ chức thì ta thiếu nguồn nhân lực, thiếu cả sự tuân thủ trong thực thi, dẫn đến tư duy ngắn hạn trong người nông dân. Đồng thời tạo ra những kẽ hở làm nản lòng những người có tâm huyết, và tạo cơ hội cho tình trạng mua gian bán lận.
Sẵn sàng trả 1 tỷ/con tôm giống nếu không đạt chất lượng
Được biết anh là Chủ tịch Hiệp hội tôm Bình Thuận, Hiệp hội cũng là một cơ quan có tiếng nói trong việc tác động chính sách. Không biết anh và Hiệp hội đã tác động hay có thông tin gì về chính sách trong tương lai gần?
Ở góc độ Hiệp hội, tôi luôn chia sẻ để thành viên có thông tin và triết lý sản xuất phù hợp với sự phát triển bền vững của ngành. Nhưng ngoài phạm vi Hiệp hội, tôi không thể kiểm soát được những mắt xích gian dối bắt tay nhau tạo ra những sản phẩm không chuẩn. Đây chính là những mắt xích phá hoại ngành tôm.
Chúng ta có 2 bài học nhãn tiền và đầy sức cảnh tỉnh là Ecuador và Thái Lan để hình dung về vai trò của nhà nước, của chiến lược quốc gia lên ngành hàng tiềm năng này. Hai bài học này luôn làm tôi ám ảnh. Ở Nam Miền Trung tôi đã thực hiện việc quy hoạch và đồng bộ tiêu chuẩn với xác quyết con tôm là sản phẩm chiến lược. Và tôi đã thể hiện rằng mình làm được.
Tôi cũng đã gửi gắm lên cơ quan chủ quản yêu cầu phải cấu trúc nhanh ngành tôm, phân tích về việc tổ chức sản xuất đồng bộ, có KPI và đề xuất việc quy hoạch vùng sản xuất đặc sắc, đặc sản cho từng sản phẩm tôm giống, tôm thương phẩm. Đồng thời, nhấn mạnh việc xây dựng tiêu chuẩn, xây dựng kênh thông tin đồng bộ, liên tục cho người dân.
Những chuẩn mực Nam Miền Trung thiết lập đã tạo niềm tin của người dân nuôi tôm trong một phạm vi nhất định. Nhưng, phần đông vẫn đang đối diện với cách làm gian dối, thiếu chuẩn mực. Anh có nghĩ nguyên nhân một phần là do mình thiếu kênh truyền thông không?
Đúng vậy. Nhưng nếu chỉ truyền thông từ các doanh nghiệp thì sẽ không có tính tác động. Ta rất cần một hệ thống truyền thông chính thống cùng vào cuộc. Phương tiện truyền thông của Việt Nam hiện rất đa dạng, hoàn toàn có thể làm được việc này, quan trọng là ta phải có sự thống nhất ở tầm vĩ mô để tổ chức truyền thông. Tôi rất đau đáu về thị trường khi con tôm giống ra khỏi cánh cổng Nam Miền Trung. Bên trong cánh cổng, chúng tôi đã chuẩn hóa từng công đoạn và quản lý tiêu chuẩn chất lượng bằng khoa học công nghệ. Những tiêu chuẩn này được định lượng rất cụ thể qua xét nghiệm. Tại Nam Miền Trung, nếu phát hiện con tôm giống nào không đạt chuẩn, tôi sẵn sàng trả 1 tỷ đồng cho con tôm đó. Nhưng một khi con tôm giống đi ra khỏi cổng Nam Miền Trung, tôi không còn kiểm soát được nữa. Chất lượng sản phẩm của toàn ngành không thể được quyết định bởi một doanh nghiệp.
Vì vậy, vẫn phải nhấn mạnh rằng, nếu xác định con tôm là sản phẩm hàng hóa có giá trị tỷ đô, thì hãy ngừng đối xử với nó như chuyện cái tôm cái tép. Phải xem đó là một sản phẩm hàng hóa, phải hoạch định chiến lược và nhất quán với mục tiêu đó.
Có thể thấy, khát vọng của Nam Miền Trung vượt ra khỏi quy trình sản xuất tôm giống của đơn vị, mà dài theo vòng đời của con tôm thương phẩm Việt Nam. Và khát vọng của Nguyễn Hoàng Anh không giới hạn trong sự phát triển của một doanh nghiệp, mà mang tầm thương hiệu nước nhà, với những trăn trở về chiến lược quốc gia. Những chia sẻ của anh với Nông thôn Việt cũng là một cách để thông tin khi ta chưa thể chờ sự vào cuộc của cả một hệ thống truyền thông. Nông thôn Việt xin chia sẻ và đồng hành cùng anh và các doanh nhân có tâm huyết trong khát vọng phát triển ngành hàng tỷ đô này. Cảm ơn anh!
Nguồn: Nông thôn Việt
Có thể bạn quan tâm
-
GS. Nguyễn Mại: Phải có chính sách để FDI hợp tác với doanh nghiệp Việt thay vì để họ cạnh tranh
-
Nước mắm truyền thống trước nguy cơ suy giảm nguồn cá cơm
-
Long Châu, Pharmacity và những cái tên nào đang chia phần ‘miếng bánh’ tỷ đô ngành bán lẻ dược phẩm?
-
Chiến tranh thương mại: Ngành nào của Việt Nam hưởng lợi, ngành nào gặp khó?
-
‘Cơn lốc’ thuế quan từ Mỹ: Việt Nam làm gì để giữ chân doanh nghiệp FDI?
-
Vì sao vẫn còn chuyện ‘lấy đá ghè chân’ doanh nghiệp?
Chuyện làm ăn
GS. Nguyễn Mại: Phải có chính sách để FDI hợp tác với doanh nghiệp Việt thay vì để họ cạnh tranh

Mặc dù, khu vực kinh tế tư nhân hiện đang tạo ra khoảng 51% GDP của nền kinh tế, đóng góp khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút 85% lực lượng lao động, là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế.
Tuy nhiên, sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa được như kỳ vọng khi phần lớn vẫn là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ chưa cao. Trong bối cảnh kinh tế biến động, chịu tác động bởi các cú sốc từ bên ngoài, doanh nghiệp tư nhân càng dễ chịu tổn thương.
Vì vậy, phát triển kinh tế tư nhân càng trở thành nhiệm vụ quan trọng để khu vực này trở thành một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu của nền kinh tế và là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng.
Phân tích về những nguyên nhân khiến doanh nghiệp tư nhân chưa phát triển được như kỳ vọng, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với GS. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE).
Thưa ông, một số ý kiến cho rằng môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, doanh nghiệp tư nhân gặp tình trạng phân biệt đối xử về đất đai, vốn, thị trường và gặp bất lợi về thuế, hải quan so với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI dẫn đến khu vực này kém phát triển, ông đánh giá sao về quan điểm này?
Thay vì đánh giá các FDI đang lấn lướt doanh nghiệp tư nhân chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, Việt Nam đang thiếu chính sách kết nối theo chuỗi để doanh nghiệp tư nhân có thể bắt tay hợp tác thay vì bị cạnh tranh từ những “gã khổng lồ” về vốn và công nghệ.
Một trong những lợi ích khi thu hút các doanh nghiệp FDI đến đầu tư tại Việt Nam ngoài giải quyết bài toán lao động, tạo giá trị gia tăng còn có tác dụng lan toả đến các doanh nghiệp trong nước để cùng phát triển. Tác dụng lan toả của FDI hiện nay không phải là không có mà chưa thực sự như mong muốn bởi vì hiện nay chúng ta chưa có chính sách kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân.
Đáng lẽ ra, các doanh nghiệp FDI có vender là doanh nghiệp Việt Nam phải được hưởng ưu đãi cao hơn so với các doanh nghiệp mang vender của họ sang Việt Nam.Chúng tôi đã đề nghị nhiều lần với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và bây giờ là Bộ Tài chính nhưng đáng tiếc là hiện vẫn chưa có những chính sách như vậy.
Chúng ta phải tìm ra mô hình để doanh nghiệp FDI bắt buộc phải tạo cơ hội cho doanh nghiệp nội tham gia vào chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất của họ, đồng thời cũng để nâng dần trình độ của các doanh nghiệp trong nước.
Tập đoàn Samsung khi đầu tư vào Thái Nguyên và Bắc Ninh, thời gian đầu họ đã đưa 87 vender cấp 1 của họ vào Việt Nam và chỉ sử dụng 4 – 5 doanh nghiệp vender cấp 2, cấp 3 trong các khâu đóng gói bao bì, vận chuyển. Những khâu này không đáng bao nhiêu giá trị gia tăng trong chuỗi sản xuất của họ.
Nhưng đến khi Samsung mở nhà máy sản xuất điện tử, điện lạnh tại TP HCM, họ đã lựa chọn 9 doanh nghiệp Việt Nam, mỗi doanh nghiệp cử ba chuyên gia sang Hàn Quốc để học tập và làm việc ba tháng để học hỏi cách vận hành, quản lý của họ để làm sao đáp ứng 18 tiêu chí trở thành vender cấp 1 cho Samsung.
Trong vòng ba tháng, 9 doanh nghiệp Việt Nam này đã chuyển đổi cách quản trị, sắp xếp lại dây chuyền, tìm kiếm công nhân, người lao động tay nghề cao và họ đã đáp ứng được yêu cầu của Samsung. Cả 9 doanh nghiệp này đều chưa đầu tư thêm mà chỉ thay đổi cách quản trị, dây chuyền mà đã nâng cao năng lực sản xuất lên 50%.
Sau đó, Samsung đã phối hợp với Bộ Công Thương làm các lớp tập huấn cho chuyên gia Việt Nam để nhóm chuyên gia này lại tư vấn cho các doanh nghiệp. Vì vậy, từ 9 vender là doanh nghiệp Việt Nam, hiện nay Samsung có hơn 300 vender là doanh nghiệp nội, trong đó có trên 100 doanh nghiệp cấp 1.
Chỉ có đưa các chính sách vừa yêu cầu vừa ưu đãi, khuyến khích thì doanh nghiệp nội mới có cơ hội hợp tác với các FDI thay vì cạnh tranh hay đối đầu.
Các doanh nghiệp tầm trung của Việt Nam hoàn toàn đủ sức làm vender của các doanh nghiệp FDI nhưng họ không có điều kiện, tiếp cận và cần sự hỗ trợ từ Nhà nước.
Cũng không cần cử chuyên gia đi học ở Nhật Bản hay Hàn Quốc mà nên học từ chính các FDI trong nước để chuyển giao, đổi mới, công nghệ, quản trị. Chỉ có nâng cao được năng suất lao động và trình độ công nghệ, các doanh nghiệp mới tăng trưởng bền vững và không phụ thuộc quá nhiều về tài nguyên đất đai hay vốn.
Như ông đã phân tích, những bất cập về chính sách, khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng, đất đai của doanh nghiệp tư nhân dẫn đến thực trạng số doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ chiếm tới 66,8%, trong khi doanh nghiệp công nghiệp lại rất ít ỏi. Vậy phải làm sao để phát triển khu vực này, bởi các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc đều phải có một nền công nghiệp rất vững chắc?
Công nghiệp hoá, phát triển khoa học công nghệ là quá trình tất yếu để đột phá và trở thành nước phát triển. Quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc được tiến hành từ năm 1961 đến năm 1991. Trong ba thập niên đó, Hàn Quốc từ một nước nghèo nàn trở thành một trong những cường quốc đứng đầu Đông Á.
Tương tự, Nhật Bản cũng có một nền công nghiệp phát triển với khoa học kỹ thuật tiên tiến bởi đây là gốc của quá trình tăng năng suất lao động, tạo ra giá trị gia tăng cao hơn
.Tại Việt Nam, mới đây Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, đang tiến hành Tổng kết Nghị quyết của Trung ương về Kinh tế tư nhân để ra định hướng và giải pháp nhằm đưa khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực tăng trưởng quan trọng. Đây là một định hướng rất đúng đắn.
Chính phủ cũng đã ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn và Đề án Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030.
Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiếp tục phát triển mạnh với tinh thần dám nghĩ, dám làm, phát huy trí tuệ, bản lĩnh của người Việt Nam; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam xếp hạng 44/132, tăng 4 bậc so với năm 2022.
Định hướng của Chính phủ đã có, hệ thống chính sách đang dần được hoàn thiện. Đặc biệt là cần phát huy tốt hơn nữa vai trò của Hiệp hội nghề nghiệp.
Ở Việt Nam đang có hàng nghìn hiệp hội doanh nghiệp theo các ngành nghề nhưng hiện vẫn hoạt động theo kiểu chia sẻ thông tin với nhau chứ chưa có cơ chế hợp tác theo kiểu doanh nghiệp lớn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và dần dần lan toả ra. Đồng thời, Chính phủ cũng chưa có những cơ chế để hỗ trợ các hiệp hội này.
Bên cạnh đó, văn hoá hợp tác của Việt Nam cũng chưa thực sự tốt, các doanh nghiệp khi phát triển hơn một chút thì “cá lớn nuốt cá bé” hoặc ra thị trường nước ngoài thì cạnh tranh nhau, phá giá để giành thị phần.
Ở góc độ vĩ mô, xu hướng này sẽ làm giảm tốc độ phát triển của cả khu vực doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân. Người Nhật hơn chúng ta ở một điểm, họ rất đoàn kết khi ra thị trường nước ngoài, có tính cộng đồng cao.
Nếu một doanh nghiệp Nhật đã đàm phán với một đối tác nước ngoài khác sẽ không có bất kỳ doanh nghiệp Nhật nào khác cạnh tranh, hạ giá để phá mối làm ăn của doanh nghiệp kia, bởi tính tự tôn và cộng đồng của họ rất cao. Khi ra nước ngoài, các doanh nghiệp lớn cũng ưu tiên sử dụng các doanh nghiệp nhỏ làm nhà cung cấp, người dân Nhật Bản và cả Hàn Quốc cũng ưu tiên sử dụng hàng hoá nội địa.
Vì vậy, phải khơi dậy tinh thần dân tộc, đoàn kết trong hợp tác với thế giới, đồng thời nâng cao vị trí, vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp để tránh các doanh nghiệp bán phá giá, gây lợi cho các đối tác nước ngoài. Thà là để cho doanh nghiệp cùng nước họ hưởng lợi chứ người Nhật không bao giờ để doanh nghiệp nước ngoài hưởng lợi.
Người Hoa có cộng đồng kinh doanh người Hoa, người Hàn, người Nhật có cộng đồng của họ thì Việt Nam vốn đã nhiều doanh nghiệp nhỏ càng phải đoàn kết.
Cộng đồng doanh nghiệp cần kiến nghị căn cứ đường lối của Đảng, Quốc hội sớm ban hành Luật về Tổ chức xã hội, trong đó quy định hành lang pháp lý đối với Hiệp hội ngành nghề làm căn cứ để từng Hiệp hội hình thành quan hệ hợp tác và phân công đối với từng loại hình doanh nghiệp, tạo thành hợp lực của từng Cộng đồng doanh nghiệp trong cuộc cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường thế giới.
Vậy với các doanh nghiệp tư nhân, cần làm gì để nắm bắt cơ hội đổi mới, bứt phá trong bối cảnh mới?
Với doanh nghiệp tư nhân, tôi cho rằng cần thực hiện ngay mấy giải pháp. Thứ nhất là, đổi mới công nghệ, bồi dưỡng nhân lực chất lượng cao, để chuyển nhanh sang kinh tế số, kinh tế tuần hoàn
Doanh nghiệp cần có quan điểm, nhận thức về việc chuyển sang kinh tế số, doanh nghiệp số, sản xuất và kinh doanh xanh là giải pháp quan trọng trong bối cảnh mới.
Bởi vì, nếu không thay đổi mô hình tăng trưởng của mình thì không bảo đảm tạo ra lợi thế khai thác tiềm năng của từng loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo xu hướng mới lấy khoa học và công nghệ, nhân lực tạo ra năng suất và chất lượng cao, hiệu quả kinh tế của sản xuất, kinh doanh, thậm chí bị đào thải không những trên thị trường thế giới, mà cả thị trường trong nước.
Thứ hai là điều chỉnh chiến lược kinh doanh và đầu tư. Từ cách tiếp cận mới, sửa đổi, bổ sung chiến lược kinh doanh trên cơ sở chuyển sang quản trị doanh nghiệp theo xu hướng số, AI, Blochain, Fintech để đáp ứng với đòi hỏi của FTAs thế hệ mới trong hợp tác và đầu tư, tham gia có hiệu quả với các doanh nghiệp trong thương mại và đầu tư với đối tác nước ngoài.
Cũng như, nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường, giảm thiểu khi phát thải hướng tới Net 0 vào năm 2050.
Cuối cùng là chủ động tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu bằng cách đổi mới công nghệ, sản xuất, kinh doanh thông minh đáp ứng đầy đủ tiêu chí của các doanh nghiệp FDI để gia tăng giá trị sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá, từng bước xây dựng thương hiệu có uy tín trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thế giới.
Các doanh nghiệp lớn, tập đoàn kinh tế trong nước làm đầu tàu trong việc hợp tác và hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm theo hướng nâng dần quy mô vốn, đổi mới công nghệ, nhân lực, quản trị doanh nghiệp để cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam làm chủ thị trường trong nước, tiến tới gia tăng thị phần từng loại sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng ngày càng cao.
Xin cảm ơn ông!
Nguồn: doanhnhanvn
Chuyện làm ăn
Nước mắm truyền thống trước nguy cơ suy giảm nguồn cá cơm

Dọc các làng chài ven biển miền Trung, từ bao đời nay, nước mắm không chỉ là một sản phẩm, mà còn là biểu tượng của truyền thống, của niềm tự hào văn hóa. Thế nhưng, giữa cơn bão của biến đổi khí hậu, đánh bắt quá mức và sự cạnh tranh khốc liệt của nước mắm công nghiệp, nghề làm nước mắm truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một. Cốt lõi của vấn đề nằm ở nguồn cá cơm – nguyên liệu thiết yếu để tạo nên giọt nước mắm cốt đậm đà.
Nỗi lo mất cá – Mất cả một ngành nghề truyền thống
Cá cơm phát triển mạnh ở các vùng biển ven bờ, nơi có hệ sinh thái giàu dinh dưỡng, nhưng tình trạng đại dương nóng lên và giảm lượng oxy trong nước đã khiến đàn cá di chuyển xa hơn hoặc thu nhỏ kích thước. Theo Renato Salvatteci, nhà nghiên cứu nghề cá tại Đại học Christian Albrecht (Kiel, Đức), sự thay đổi nhiệt độ toàn cầu từng tác động đến kích thước cá trong quá khứ, và nếu xu hướng này tiếp diễn, cá cơm có thể sẽ không thể tồn tại trong môi trường quen thuộc của nó.
Hệ quả không chỉ dừng lại ở việc ảnh hưởng đến sản lượng nước mắm. Cá cơm là mắt xích quan trọng trong chuỗi thức ăn đại dương, làm thức ăn cho các loài cá lớn hơn như cá thu, cá ngừ – những loài có giá trị kinh tế cao. Chúng cũng là nguyên liệu chính để sản xuất bột cá, phục vụ ngành nuôi trồng thủy sản. Nếu sản lượng cá cơm suy giảm, toàn bộ ngành thủy sản Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nặng nề, kéo theo những hệ lụy về kinh tế và an ninh lương thực.
Tình trạng đánh bắt quá mức càng làm vấn đề trở nên trầm trọng hơn. Từ những năm 1980, phương pháp đánh bắt công nghiệp với lưới kéo quy mô lớn đã quét sạch nhiều loài cá, khiến sản lượng đánh bắt không còn tăng trưởng, dù ngư dân vẫn cố gắng ra khơi nhiều hơn. Thậm chí, theo một nghiên cứu năm 2021 của Đại học British Columbia (Canada), ngay cả khi thế giới kiểm soát được mức tăng nhiệt toàn cầu dưới 1,5°C và giảm một nửa cường độ đánh bắt cá, Biển Đông vẫn mất hơn 20% trữ lượng cá. Nếu nhiệt độ tăng đến 4,3°C, gần như toàn bộ nguồn cá sẽ biến mất.
Giữa thách thức, một gia đình vẫn kiên trì giữ lửa nghề nước mắm
Giữa biến động đó, tại một làng chài nhỏ ven biển miền Trung, gia đình ông Bùi Văn Phong vẫn gắng sức giữ nghề làm nước mắm truyền thống đã trải qua bốn thế hệ. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông Phong đã có cơ hội rời quê hương để tìm kiếm tương lai khác, nhưng ông quyết định ở lại, tiếp tục nghề cha ông để lại. Ngày nay, con trai ông, Bùi Văn Phú, 41 tuổi, tiếp nối truyền thống ấy, nhưng con đường phía trước không hề dễ dàng.
“Nước mắm không chỉ là gia vị. Nó là một phần của lịch sử, văn hóa. Là niềm tự hào của gia đình tôi và bao đời người dân làng chài,” ông Phú chia sẻ.
Nguyên liệu cốt lõi để làm nên giọt nước mắm thượng hạng vẫn là cá cơm. Mùa đánh bắt cá cơm kéo dài từ tháng 1 đến tháng 3, khi đàn cá tụ về ngoài khơi Đà Nẵng. Những con cá đạt chuẩn về kích thước và độ tươi ngay lập tức được trộn với muối biển rồi cho vào thùng ủ. Gia đình ông Phú sử dụng công thức 3 phần cá – 1 phần muối, một tỷ lệ đã được truyền lại từ nhiều đời.
Thời gian ủ kéo dài đến 18 tháng. Trong quá trình lên men, hỗn hợp phải được khuấy đều đặn hàng tuần để đảm bảo hương vị và màu sắc đạt chuẩn. Muối biển từ các vùng khác nhau cũng tạo ra hương vị khác nhau, và chính bí quyết riêng của mỗi gia đình làm nên sự khác biệt của từng thương hiệu nước mắm truyền thống.
Nhưng những năm gần đây, ông Phú ngày càng gặp khó khăn hơn trong việc tìm nguồn cá đạt chuẩn. Sản lượng đánh bắt giảm, kích thước cá nhỏ dần, khiến nhiều ngư dân thậm chí phải chuyển sang nghề khác. Nếu không có mối quan hệ lâu năm với các ngư dân đánh bắt cá cơm, gia đình ông Phú có thể đã phải mua cá với giá cao hơn rất nhiều trên thị trường.
“Nhiều gia đình làm nước mắm trong làng đã phải bỏ nghề. Giá cá cơm cao, trong khi giá nước mắm truyền thống không thể tăng mạnh vì người tiêu dùng còn e ngại chi phí. Chúng tôi đang cố giữ nghề, nhưng cũng lo lắng cho tương lai,” ông Phú chia sẻ.
Tương lai nào cho nước mắm truyền thống Việt Nam?
Việt Nam hiện là một trong hai quốc gia xuất khẩu nước mắm lớn nhất thế giới, cùng với Thái Lan. Theo dự báo của Introspective Market Research, thị trường nước mắm toàn cầu sẽ tăng trưởng từ 18,5 tỷ USD năm 2023 lên gần 29 tỷ USD vào năm 2032. Để tận dụng cơ hội này, Việt Nam đang đẩy mạnh cải thiện tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản.
Tuy nhiên, nước mắm truyền thống đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ nước mắm công nghiệp, vốn có giá thành rẻ hơn và dễ tiếp cận người tiêu dùng hơn. Nhiều nhà sản xuất nước mắm truyền thống đang tìm cách hiện đại hóa quy trình mà vẫn giữ được hương vị nguyên bản, đồng thời tăng cường quảng bá sản phẩm đến thị trường quốc tế.
Dẫu vậy, vấn đề cốt lõi vẫn là nguồn nguyên liệu. Nếu không có cá cơm, không có nước mắm truyền thống. Nếu ngư dân không còn mặn mà với nghề, thì những giọt nước mắm cốt lâu đời cũng có thể trở thành ký ức.
Giữ gìn nước mắm – Giữ gìn bản sắc dân tộc
Nước mắm không đơn thuần chỉ là một loại gia vị. Nó là linh hồn của ẩm thực Việt, là thứ hương vị mà những người con xa quê luôn nhớ về. Các đầu bếp hàng đầu của Việt Nam từng khẳng định rằng không có nước mắm, ẩm thực Việt Nam sẽ mất đi bản sắc.
Dẫu khó khăn, những người như ông Phú vẫn nỗ lực giữ gìn nghề truyền thống, với hy vọng thế hệ sau vẫn còn cơ hội tiếp tục công việc này. Nhưng để làm được điều đó, cần sự chung tay từ nhiều phía – từ chính sách hỗ trợ ngư dân, kiểm soát đánh bắt bền vững, đến việc nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về giá trị của nước mắm truyền thống.
“Nước mắm không chỉ là gia vị để nấu ăn. Đó là nghề thủ công, là văn hóa, là truyền thống mà chúng tôi cần gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau,” ông Phú nói, trong khi đôi tay vẫn đang tỉ mỉ khuấy đều từng thùng nước mắm, giữ vững một nghề đã tồn tại hàng trăm năm qua.
Thế nhưng, nếu nguồn cá cơm cứ tiếp tục suy giảm, liệu rằng những giọt nước mắm cốt đậm đà của làng chài Việt Nam có còn tồn tại trong vài thập kỷ tới?
Nguồn: vnbusiness
Chuyện làm ăn
Long Châu, Pharmacity và những cái tên nào đang chia phần ‘miếng bánh’ tỷ đô ngành bán lẻ dược phẩm?

Ngành bán lẻ dược phẩm được định giá ở mức 2 tỷ USD
Thị trường bán lẻ dược phẩm tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Mọi người ngày càng quan tâm đến sức khỏe của mình và sẵn sàng chi nhiều hơn cho các loại dược phẩm bảo vệ sức khỏe. Ngoài ra, sự dịch chuyển dân số già hóa đã dẫn đến nhu cầu về dược phẩm tăng lên, đặc biệt là khi tuổi già thường đi kèm với nhiều vấn đề sức khỏe khác nhau.
Với sự tăng trưởng ổn định về nhu cầu dược phẩm, các chuỗi nhà thuốc ngày càng nhận ra tiềm năng phân phối các sản phẩm này. Trong những năm tới, thị trường dược phẩm của Việt Nam được dự đoán sẽ mở rộng hơn nữa, được thúc đẩy bởi nhận thức về chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng trong dân số. Do đó, ngành chuỗi nhà thuốc đã nổi lên như một cơ hội đầu tư đầy hứa hẹn.
Sức hấp dẫn của thị trường này đã được chứng minh khi loạt thương hiệu lớn liên tiếp đầu tư vào lĩnh vực này. Mới đây nhất, hồi cuối năm 2024, Chris Blank, nhà sáng lập kiêm cựu CEO của Pharmacity đã thông báo khai trương chuỗi nhà thuốc mới mang tên Phượng Hoàng. Từng điều hành Pharmacity – một trong ba chuỗi nhà thuốc có thị phần lớn nhất Việt Nam, ông Chris Blank nói mục tiêu của Phượng Hoàng “không phải là chiến thắng theo cách thông thường, mà là tiếp tục cuộc hành trình, tiếp tục phát triển, cải thiện và tạo ra những giá trị bền vững”.
Mặc dù nền kinh tế đang trải qua thời kỳ suy thoái kéo dài, các chuỗi nhà thuốc vẫn tiếp tục tăng doanh thu qua từng năm. Trong giai đoạn hậu COVID-19, một số chuỗi chứng kiến doanh thu giảm nhẹ, nhưng xu hướng chung trong năm năm qua là tăng trưởng.
Thống kê của Cục Quản lý Dược, Bộ Y tế, hiện thị trường thuốc Việt khoảng 7 tỷ USD, bình quân tiêu thụ thuốc 70 USD/đầu người, tăng gấp 10 lần so với năm 2000.
Việt Nam hiện thuộc nhóm quốc gia có tổng giá trị thị trường dược phẩm và mức tăng trưởng ngành dược nhanh nhất thế giới. Tổng giá trị thị trường dược phẩm tại Việt Nam đạt 2,7 tỷ USD trong năm 2015, tăng lên 5,1 tỷ USD năm 2018 và năm 2020 đạt 6,1 tỷ USD. Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ngành công nghiệp dược Việt Nam ở cấp độ 3 (cấp có ngành công nghiệp dược nội địa, có sản xuất thuốc generic, xuất khẩu được một số dược phẩm).
Theo thống kê từ Vietdata, trong quy mô 7 tỷ USD này, 70% thị phần thuộc về kênh đấu thầu bệnh viện. Điều này có nghĩa là thị trường bán lẻ, với 60.000 hiệu thuốc, chiếm 2 tỷ USD còn lại. Trong số này, 7 chuỗi nhà thuốc hiện đại, với hơn 3.000 cửa hàng và tổng doanh thu 1,1 tỷ USD, nắm giữ hơn 50% thị phần dược phẩm bán lẻ trên cả nước.
Chuỗi nhà thuốc hoạt động thông qua ETC (thuốc theo toa) và OTC (thuốc không kê đơn). Kênh OTC hấp dẫn các nhà đầu tư do biên lợi nhuận cao hơn và không yêu cầu kê đơn, giúp người tiêu dùng dễ tiếp cận và thuận tiện hơn.

Ảnh: Vietdata
Cuộc đua giành ‘miếng bánh’ tỷ USD
Cuộc cạnh tranh để mở rộng hệ thống nhà thuốc và thống lĩnh thị trường ngày càng trở nên khốc liệt, được hỗ trợ tài chính mạnh mẽ từ các tập đoàn mẹ. Sự hỗ trợ này đóng vai trò là bàn đạp để các chuỗi liên tục mở rộng sự hiện diện của mình. Cả vốn trong nước và nước ngoài đều đang gia tăng cạnh tranh, bởi tiềm năng lớn của thị trường này.
Theo số liệu thống kê từ Vietdata, 3 chuỗi nhà thuốc lớn nhất là Long Châu, An Khang và Pharmacity đang dẫn đầu thị trường. Tại nhiều khu dân cư, các chuỗi này nằm trên cùng một con phố hoặc cạnh nhau, làm nổi bật sự cạnh tranh khốc liệt trong việc thu hút khách hàng. Các hiệu thuốc mọc lên nhanh chóng, với mật độ cửa hàng cao ở cả các khu đô thị lớn và nhỏ.
Tuy nhiên, với sự cạnh tranh khốc liệt, một số chuỗi nhà thuốc đã buộc phải cắt giảm chi nhánh do kém hiệu quả. Trên thực tế, việc mở rộng quy mô không phải lúc nào cũng mang lại lợi ích kinh tế, chưa kể đến việc lãng phí nguồn lực không tạo ra giá trị thực sự cho doanh nghiệp. Mặc dù được các tập đoàn lớn hậu thuẫn, các chuỗi này liên tục phải đối mặt với áp lực duy trì hiệu quả kinh doanh và đảm bảo tăng trưởng bền vững.
Theo BCTC hợp nhất quý IV/2024 do CTCP Bán lẻ Kỹ thuật số FPT (FPT Retail, mã: FRT) công bố, FPT Long Châu ghi nhận doanh thu năm 2024 đạt 25.320 tỷ đồng, chiếm 59% tổng doanh thu và tăng 59% so với năm trước. Doanh thu trung bình trên mỗi nhà thuốc duy trì khoảng 1,2 tỷ đồng/tháng.
Long Châu là một trong những hệ thống bán lẻ dược phẩm lớn nhất và phát triển nhanh nhất tại Việt Nam. Năm 2016, chuỗi này có 185 nhà thuốc, tính đến hết tháng 3/2025, số lượng đã tăng lên 1.998, tăng trưởng gấp hơn 10 lần trong 8 năm qua.
Long Châu cũng đã mở rộng sang dịch vụ tiêm chủng bằng cách thành lập các Trung tâm Tiêm chủng Long Châu, bổ sung cho mô hình nhà thuốc và tối ưu hóa hiệu quả hoạt động. Hiện Long Châu sở hữu 124 trung tâm tiêm chủng trên toàn quốc.
Pharmacity từng là chuỗi bán lẻ dược phẩm hàng đầu tại Việt Nam, đã trở nên nổi tiếng nhờ tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và mục tiêu đầy tham vọng là đạt 5.000 nhà thuốc vào năm 2025. Tuy nhiên, sau khi mở rộng nhanh chóng, chuỗi này đã phải đối mặt với thách thức trong việc duy trì thị phần.
Tốc độ tăng trưởng nhanh dẫn đến các vấn đề về hiệu suất, buộc Pharmacity phải đóng cửa các chi nhánh hoạt động kém hiệu quả. Tính đến nay, chuỗi nhà thuốc này còn 940 hiệu thuốc. Vị trí dẫn đầu mà Pharmacity từng nắm giữ hiện đã chuyển sang Long Châu, chủ yếu là do khó khăn trong việc điều chỉnh giá sản phẩm và đảm bảo nguồn cung thuốc đầy đủ.
Từ năm 2022, Pharmacity đã trải qua một số thay đổi về vị trí CEO. Cụ thể, năm 2022, nhà sáng lập là ông Chris Blank rời vị trí Tổng giám đốc, người thay thế là bà Trần Tuệ Tri; sang 2023, Công ty có Tổng giám đốc mới là ông Deepanshu Madan. Điều này đã ảnh hưởng đến định hướng chiến lược của chuỗi. Để vượt qua những thách thức này, Pharmacity đã chủ động sửa đổi chiến lược định giá và mở rộng danh mục sản phẩm, nhấn mạnh vào việc cải thiện dịch vụ thuốc theo toa.
Sau khi đối mặt với cuộc khủng hoảng kép từ cả môi trường kinh tế và các vấn đề nội bộ công ty, Pharmacity đã trải qua một năm tài chính khó khăn nữa. Doanh thu của công ty trong năm 2024 giảm khoảng 15% so với năm trước, chủ yếu là do đóng cửa gần 200 cửa hàng. Mặc dù cắt giảm các chi nhánh không hiệu quả, chuỗi này vẫn báo cáo khoản lỗ ròng hơn 900 tỷ đồng. Sau hai năm liên tiếp thua lỗ đáng kể và thay đổi lãnh đạo thường xuyên, Tổng giám đốc điều hành Pharmacity đã tái khẳng định cam kết của công ty trong việc giành lại vị thế trên thị trường và giành lại khách hàng.
An Khang là chuỗi nhà thuốc được Thế Giới Di Động mua lại vào năm 2017 và sở hữu hoàn toàn từ năm 2021. Trước đó, MWG đặt mục tiêu đầy tham vọng là mở rộng An Khang lên 2.000 nhà thuốc, nhưng kế hoạch này tỏ ra khó khăn vì số lượng chi nhánh đã dần giảm. Trong năm 2023, An Khang chỉ tăng 27 nhà thuốc lên con số 527. Sang tới 2024, quy mô chủ yếu đi ngang trong giai đoạn đầu năm trước khi ghi nhận động thái thu hẹp mạnh mẽ từ tháng 6.
Tính đến cuối năm 2024, chuỗi nhà thuốc An Khang còn 326 nhà thuốc, giảm 200 nhà thuốc so với đầu năm, hoạt động đóng cửa các cửa hàng diễn ra vào 10 tháng đầu năm, 2 tháng cuối cùng của năm, An Khang không đóng cửa thêm nhà thuốc nào.
Báo cáo tài chính năm 2024 của Thế giới di động (mã: MWG) cho thấy, chuỗi nhà thuốc An Khang đạt doanh thu cả năm gần 2.300 tỷ đồng, tăng trưởng 3% so với cùng kỳ. Riêng quý IV/2024, doanh thu bình quân/cửa hàng tăng 15% so với mức trung bình 2 quý liền trước và mức lỗ đã giảm đáng kể so với các quý còn lại trong năm. Năm 2024, An Khang lỗ gần 347 tỷ đồng, nâng lỗ lũy kế lên mức 1.008 tỷ đồng.
Mặc dù doanh thu tăng trưởng, nhưng lợi nhuận vẫn là thách thức đối với An Khang. Mặc dù không mở thêm nhà thuốc mới, nhưng chi phí nâng cấp sản phẩm, xây dựng thương hiệu, tồn kho và chi phí tiếp thị đã làm xói mòn lợi nhuận. Trong khi MWG đặt mục tiêu đạt điểm hòa vốn chuỗi nhà thuốc An Khang vào quý II năm nay, chuyên gia SSI Research dự báo, doanh thu năm 2025 của chuỗi nhà thuốc An Khang có thể giảm còn 2.000 tỷ đồng do MWG vẫn đang gặp khó khăn với mô hình kinh doanh nhà thuốc và có thể chịu lỗ 232 tỷ đồng trong 2025.
MEDiCARE là chuỗi nhà thuốc kết hợp bán dược phẩm với mỹ phẩm chăm sóc sức khỏe và làm đẹp. Mô hình kinh doanh này giúp MEDiCARE đa dạng hóa danh mục sản phẩm và tiếp cận lượng khách hàng rộng hơn, qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của từng chi nhánh. Hiện nay, MEDiCARE đang vận hành hơn 140 cửa hàng trên khắp Việt Nam và Myanmar.
Theo Vietdata, tại MEDiCARE, dược phẩm chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong doanh số so với mỹ phẩm, nghĩa là hầu hết người tiêu dùng vẫn coi MEDiCARE là một nhà bán lẻ mỹ phẩm hơn là một hiệu thuốc. Trong khi cả chuỗi mỹ phẩm và dược phẩm đều phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt, MEDiCARE vẫn chưa thể nổi bật trong cả hai lĩnh vực. Sự mở rộng của các đối thủ cạnh tranh lớn hơn đặt ra một thách thức đáng kể cho MEDiCARE, xét đến quy mô tương đối khiêm tốn của công ty.
Hiệu quả kinh doanh của chuỗi không mấy khả quan. Doanh thu dao động trong khoảng 200 – 300 tỷ đồng và có xu hướng giảm. Năm 2023, chuỗi tạo ra 240 tỷ đồng, tương đương khoảng 1,7 tỷ đồng/cửa hàng, mặc dù có vị trí đắc địa tại các trung tâm thương mại hoặc các tuyến phố lớn. Tuy nhiên, các vị trí đắc địa này vẫn chưa tạo ra đủ doanh thu để trang trải chi phí bán hàng, khiến chuỗi lỗ hơn 110 tỷ đồng.
Trung Sơn Pharma được thành lập năm 1997, là chuỗi nhà thuốc lớn nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2023, Trung Sơn đã bán 51% cổ phần cho Donghwa Pharma (Hàn Quốc) với giá 30 triệu USD, định giá công ty ở mức hơn 1.400 tỷ đồng.
Từ khi có cổ đông nước ngoài, Trung Sơn Pharma đã mở rộng lên 200 nhà thuốc, tăng 60 chi nhánh và có kế hoạch mở rộng lên 460 cửa hàng tại Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh.
Mô hình kinh doanh của Trung Sơn cân bằng giữa dược phẩm và mỹ phẩm. Ngoài ra, Trung Sơn Pharma còn sở hữu một phòng khám thẩm mỹ, một trung tâm mỹ phẩm và một nền tảng thương mại điện tử. Sự đa dạng này cùng sự hiện diện mạnh mẽ tại Đồng bằng sông Cửu Long đã giúp Trung Sơn Pharma tạo ra doanh thu lên tới hàng tỷ đồng.
Dữ liệu từ Vietdata, năm 2023, doanh thu Trung Sơn Pharma giảm hơn 7%, có thể do những thách thức kinh tế rộng lớn hơn. Đáng chú ý hơn, lợi nhuận ròng giảm mạnh, công ty báo lỗ gần 60 tỷ đồng.
Từng được kỳ vọng có vị trí vững chắc trên thương trường sau khi hợp tác với Masan và sáp nhập vào hệ thống Winmart, tuy nhiên, Phano Pharmacy lại khá ít xuất hiện và thị phần cũng ngày càng khiêm tốn. Theo Nhịp cầu đầu tư, năm 2017, Phano là hệ thống dẫn đầu thị trường bán lẻ dược phẩm với chuỗi 60 nhà thuốc. Tuy nhiên, vài năm gần đây, thị trường bán lẻ dược phẩm cạnh tranh rất khốc liệt, Pharmacity với nguồn vốn đầu tư lớn đã liên tục bành trướng, chưa kể sự tham gia của những tân binh. Cập nhật đến tháng 3/2025, chuỗi nhà chuỗi này còn vỏn vẹn 37 cửa hàng, chủ yếu tập trung tại TP HCM.
ECO Pharma là chuỗi nhà thuốc có ít chi nhánh nhất, nằm trong hệ sinh thái cùng Bệnh viện Tâm Anh và Trung tâm tiêm chủng VNVC. Công ty chủ yếu phân phối dược phẩm cho các nhà thuốc bệnh viện và các hiệu thuốc bán lẻ trên toàn quốc. Năm 2023, chuỗi ghi nhận doanh thu giảm hơn 28% so với năm trước. Chi phí quảng cáo thường xuyên vào giờ cao điểm cũng dẫn đến chi phí đáng kể cho chuỗi. Đến cuối năm 2023, lợi nhuận của công ty giảm xuống chỉ còn hơn 1 tỷ đồng, cải thiện đôi chút so với năm trước, nhưng biên lợi nhuận ròng 0,1% vẫn cực kỳ mỏng.
Nguồn: doanhnhanvn


GS. Nguyễn Mại: Phải có chính sách để FDI hợp tác với doanh nghiệp Việt thay vì để họ cạnh tranh

Những chính sách nổi bật liên quan đến kinh tế có hiệu lực từ tháng 4/2025

Thị trường carbon Việt Nam sẽ giao dịch 2 loại hàng hóa chính

Được quan tâm
-
Thị trường3 tháng ago
Sau cơn ‘sốt’ kéo dài 2 năm, thị trường chung cư Hà Nội đang ở giai đoạn ‘hạ nhiệt’ tạm thời
-
Vì cộng đồng3 tháng ago
Ấm lòng mì gõ, bánh mì chảo 0đ giữa trung tâm TP.HCM
-
Nhìn ra Thế giới3 tháng ago
Những nền kinh tế áp thuế thu nhập cá nhân cao nhất thế giới
-
Nhìn ra Thế giới3 tháng ago
Mỹ là nơi sinh sống của 30% số tỷ phú toàn cầu
-
Chuyện làm ăn3 tháng ago
Thế giới đã phẳng, không còn cách biệt với trẻ em nông thôn
-
Vì cộng đồng3 tháng ago
Hát để sẻ chia với bệnh nhi nghèo
-
Chuyện làm ăn3 tháng ago
Long Châu, Pharmacity và những cái tên nào đang chia phần ‘miếng bánh’ tỷ đô ngành bán lẻ dược phẩm?
-
Câu chuyện thành công3 tháng ago
‘Thời trẻ tôi từng nghĩ có nhiều tiền là hạnh phúc…’