Chính nghịch lý giữa tiềm năng về đa dạng chủng loài cây dược liệu, khả năng gây trồng và nhu cầu sử dụng cây dược liệu với thực trạng phát triển cây dược liệu, buộc chúng ta phải tìm ra và tháo điểm nghẽn.
Tiềm năng, đáp ứng nhỏ
Việt Nam được đánh giá có nguồn tài nguyên dược liệu phong phú. Ghi nhận cho thấy đã có 5.117 loài được sử dụng, trong đó khoảng 200 loài đã được khai thác thương mại. Có nhiều loài cây dược liệu quý, hiếm đặc hữu như: sâm Ngọc linh, sâm Lai Châu, sâm vũ diệp, bảy lá một hoa, lan kim tuyến, tam thất hoang, bách hợp, thông đỏ, vàng đắng…
Thị trường tiêu thụ dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu của Việt Nam là rất lớn. Hệ thống khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền (YHCT) hiện có 63 bệnh viện YHCT công lập, 92,7% bệnh viện đa khoa tỉnh có bộ phận YHCT, khoảng 80% trạm y tế xã có hoạt động khám chữa bệnh bằng YHCT và gần 7.000 cơ sở hành nghề YHCT tư nhân sử dụng dược liệu trong khám chữa bệnh.
Tổng diện tích phát triển cây dược liệu là 357.178ha với 150 loài khác nhau. Trong đó, trồng trên đất lâm nghiệp (bao gồm trồng dưới tán rừng) là 220.178ha; trồng trên đất sản xuất nông nghiệp là 137.000ha. Về phân bố, vùng Tây Bắc bộ là 46.181ha, bao gồm 57 loài, chủ yếu là sơn tra/táo mèo (14.634ha), quế (10.312ha), thảo quả (6.543,7ha); vùng Đông Bắc bộ diện tích phát triển cây dược liệu là 270.565ha, bao gồm 59 loài, chủ yếu là quế (160.207ha), hồi (59.525ha), thảo quả (16.155ha), ba kích (2.936ha), sa nhân (2.630ha); vùng Tây Nguyên là 13.330ha, bao gồm 24 loài.
Diện tích lớn nhưng diện tích quế, hồi, thảo quả chiếm tỉ trọng lớn, nên vẫn không đạt các mục tiêu đề ra trong Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 (Quyết định 1976/QĐ-TTg, 30/10/2013) về cơ cấu 54 loài dược liệu thế mạnh của 8 vùng sinh thái, về nhu cầu sử dụng dược liệu trong nước… Các nguồn số liệu gần đây vẫn đánh giá nguồn dược liệu trong nước mới đáp ứng được khoảng 25 – 30% nhu cầu.
Các phương tiện thông tin đại chúng giới thiệu nhiều thông tin về làm giàu từ cây thuốc ở các địa phương. Nhưng ngoại trừ những người đã giàu lên từ trồng sâm Ngọc Linh ở vùng xuất xứ Nam Trà My, Kon Tum và nhiều nông dân đã khá lên từ quế, hồi, thảo quả… ở vùng có diện tích lớn, thì còn lại hầu hết là các điển hình sản xuất quy mô nhỏ, các mô hình trình diễn, không mấy ý nghĩa trong sinh kế của đa số nông dân.
Chính nghịch lý giữa tiềm năng về đa dạng chủng loài cây dược liệu, khả năng gây trồng và nhu cầu sử dụng cây dược liệu với thực trạng phát triển cây dược liệu, buộc chúng ta phải tìm ra và tháo điểm nghẽn.
Y – nông một luật, cây chạy 2 đường
Do đặc thù về sử dụng nên cây dược liệu đòi hỏi sự phân công, phối hợp một cách chặt chẽ, thực chất hơn giữa ngành NN&PTNT và Y tế. Với hệ thống ngành rộng khắp của mình và kinh nghiệm trong nghiên cứu cây trồng, chỉ đạo đúng, kịp thời thì ngành NN&PTNT sẽ làm tốt công tác nghiên cứu về chọn lọc, phục tráng, nhân giống, du nhập giống mới, các biện pháp canh tác, quản lý dịch hại… và tổ chức, hướng dẫn sản xuất cây dược liệu.
Ngành Y tế có những chuyên gia giỏi về thực vật dược, rất cần sự phối hợp liên ngành trong nghiên cứu chuyên sâu theo chuỗi giá trị cây dược liệu; phối hợp trong xây dựng quy trình thu hoạch và sơ chế để dược liệu đạt quy chuẩn…
Luật Dược 2016 đã có phân công nhiệm vụ mỗi ngành nhưng dường như thiếu sự phối hợp trong thực tế. Muốn sự phối hợp có hiệu quả, cần dựa theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành và nhiệm vụ phát triển cây dược liệu để cụ thể hóa chương trình phối hợp 5 năm, hằng năm và có tổ chức đánh giá kết quả ở cấp bộ và cấp tỉnh.
Trước hết, cần hệ thống lại những kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ về cây dược liệu để chia sẻ, sử dụng chung hiệu quả. Có phân công, phân cấp cụ thể nhiệm vụ nghiên cứu khoa học – công nghệ về cây dược liệu giữa các cơ quan ở Trung ương, giữa cơ quan Trung ương và địa phương; các viện, trường tập trung cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao để tạo đột phá trong sản xuất thuốc mới, chọn tạo giống cây dược liệu; rà soát để tránh trùng lắp nhiệm vụ/ nội dung nghiên cứu khoa học – công nghệ, nhất là cấp ngành và cấp tỉnh.
Tiếp theo, ngành Y tế đặt hàng những dược liệu có nhu cầu lớn, có thể sản xuất trong nước để thay thế nhập khẩu và thúc đẩy sử dụng nguồn dược liệu đạt chuẩn sản xuất trong nước.
Liên kết chuỗi giá trị: ‘thuốc đặc trị’
So với các cây trồng khác, hệ thống các dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất cây dược liệu chưa phát triển. Theo chúng tôi, bức thiết nhất là cần nhanh chóng đáp ứng giống dược liệu tốt cho sản xuất. Quyết định công bố lưu hành giống là điều kiện đầu tiên để một giống được tổ chức sản xuất đúng các quy định pháp luật. Nhưng đến nay số lượng giống được công bố lưu hành chỉ đếm trên đầu ngón tay; ngay cả với loài đặc hữu quý sâm Ngọc Linh cũng chưa thấy có công bố lưu hành giống. Cũng có nghĩa là phần lớn các nguồn giống cây dược liệu đang lưu hành, cung ứng cho sản xuất hiện nay là chưa đảm bảo tuân thủ pháp luật; khó có giống đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng.
Để khắc phục việc này, nếu chỉ xử lý theo quy định các cơ sở sản xuất kinh doanh giống cây dược liệu thì dễ nhưng đó không phải là giải pháp được chọn ở thời điểm này. Các viện, trường, cơ quan chuyên môn các cấp tùy theo điều kiện thực tế (đang nghiên cứu, chọn tạo giống; đang theo dõi, hướng dẫn sản xuất…) có thể trực tiếp thực hiện hoặc hướng dẫn hỗ trợ các tổ chức cá nhân lập thủ tục công bố lưu hành giống, xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho các giống cây dược liệu. Ưu tiên sử dụng nguồn hỗ trợ, từ Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 và các nguồn tài chính khác, để hỗ trợ đầu tư xây dựng những cơ sở sản xuất giống cây dược liệu chính của mỗi địa phương. Xây dựng lộ trình để hình thành được mạng lưới sản xuất, cung ứng giống đạt tiêu chuẩn; thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, bảo đảm giống dược liệu tốt cho sản xuất.
Tiêu thụ sản phẩm là dịch vụ đầu ra quan trọng nhất, đây cũng là điểm nghẽn lớn nhất trong phát triển cây dược liệu hiện nay. Khi tiêu thụ dễ dàng và có lãi cao như sâm Ngọc Linh thì không cần chính sách hỗ trợ, diện tích trồng vẫn được mở rộng nhanh, tương ứng với khả năng đáp ứng của cây giống; đầu ra bất ổn và sản xuất kém hiệu quả thì dù một số tỉnh có cơ chế hỗ trợ sản xuất nhưng trồng mới cây dược liệu vẫn rất ì ạch.
Có dịp tìm hiểu về sản xuất, tiêu thụ cây dược liệu ở một số tỉnh (Quảng Nam, Kon Tum, Lâm Đồng, Nam Định, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hà Giang, Lào Cai…), chúng tôi nhận thấy diện tích các cây dược liệu sản xuất theo hợp đồng liên kết không nhiều. Traphaco có lẽ là đơn vị tiên phong khi đã xây dựng được vùng nguyên liệu hơn 36.300ha trải dài trên 24 tỉnh thành từ Bắc vào Nam (theo số liệu của Traphaco), trong đó 5 loại dược liệu (Atiso, Rau đắng đất, Bìm bìm, Đinh lăng, Chè dây) có vùng trồng/thu hái đạt chuẩn quốc tế GACP-WHO.
Một số doanh nghiệp khác, có liên kết vùng nguyên liệu trồng thìa canh, cát cánh, kim tiền thảo, đinh lăng… ở một số địa phương nhưng diện tích không lớn, chưa đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất của nông dân.
Cách sử dụng phổ biến nhất hiện nay là nhiều cây thuốc được ngâm rượu, các sản phẩm thô (tươi, khô) để dùng làm thực phẩm, nấu nước uống; từ khi có OCOP, các sản phẩm từ cây dược liệu chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu nhưng cũng chỉ ở mức sơ chế như phơi/ sấy khô, trà túi lọc, các loại cao, các loại rượu ngâm thảo dược.
Như vậy, cơ chế chính sách cần tác động thúc đẩy hợp tác, liên kết sản xuất, hình thành các vùng sản xuất tập trung đạt chuẩn GACP-WHO gắn với chế biến, tiêu thụ thì mới hiệu quả. Trong đó, ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển các loại thuốc Đông, Tây y dùng nguyên liệu thảo dược trong nước; chế biến nguyên liệu đạt chuẩn cho thị trường thuốc y học cổ truyền và hội đủ các điều kiện dự thầu cung cấp thuốc cho các cơ sở khám chữa bệnh…
Giải được các đứt gãy trên, chính là thuốc tan “cục máu đông” dai dẳng bao nhiêu năm qua.
Nguồn: Nông thôn Việt