Lo cũng chỉ để… lo
Trong các thương vụ M&A nổi bật, có thể kể đến cuộc đua từ Thái Lan vào ngành nông nghiệp Việt. Doanh nghiệp (DN) Thái đầu tư bài bản vào chuỗi cung ứng, bắt đầu từ sản xuất lan dần sang mảng phân phối, kéo theo hàng nông sản từ Thái Lan đang chiếm ưu thế trên các kệ siêu thị. Năm 2016, Central Group – Tập đoàn bán lẻ đến từ Thái Lan cũng đã chi 1,14 tỷ USD để thâu tóm chuỗi siêu thị Big C. Gần đây hơn là Singha Asia Holding (Thuộc tập đoàn Boon Rawd Brewery) đã mua 25% cổ phần Masan consumer và 33.3% Masan Brewery. Bên cạnh đó, cũng mới đây, là đình đám thương vụ CJ Group (Hàn Quốc) mua 47,33% cổ phần của Công ty cổ phần Chế biến hàng xuất khẩu Cầu Tre…
Tuy ít có công bố chính thức về đầu tư từ Trung Quốc qua ngả M&A nhưng theo các báo cáo, đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã tăng hơn 70 lần. Tính đến tháng 3/2024, Trung Quốc có 4.418 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 27,6 tỉ USD. Việt Nam mừng vì thị trường nông nghiệp hấp dẫn đối với nhà đầu tư Trung Quốc, còn thị trường nhập khẩu như Mỹ lại lo, bởi Mỹ từ lâu đã áp thuế nhập khẩu nặng nề với hàng hóa từ Trung Quốc và đưa ra nhiều biện pháp phòng vệ đối với hàng Trung Quốc núp bóng nước khác vào nước này, trong đó có Việt Nam. Mức thuế mới Mỹ áp lên nông sản Việt hoàn toàn có thể xảy ra, nếu phát hiện tình trạng hàng Trung Quốc núp bóng “made in Vietnam”. Lúc đó, ai thiệt, biết liền!
Cũng cần nhắc lại, mới đây Trung Quốc đã bỏ ra 500 triệu đô-la để xây hàng loạt tổng kho hàng cạnh biên giới Hà Khẩu – giáp Lào Cai, Bằng Tường – giáp Lạng Sơn và Đông Hưng – giáp Quảng Ninh. Dễ hiểu, từ nay, hàng Trung Quốc vốn đã đa dạng, rẻ, thì sẽ còn rẻ và đa dạng hơn nữa. Ở góc độ nông sản, khi chuỗi cung ứng ngành nông của Việt Nam được trao cho số đông doanh nghiệp Trung Quốc M&A, thì cửa vào thị trường nước này chắc chắn họ sẽ nắm giữ. Nhà nông Việt muốn giữ được thị trường phải cạnh tranh gấp bội với nhà đầu tư Trung Quốc tại Việt Nam và tại Trung Quốc.
Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Anh, giảng viên ngành Tài chính, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam, nhận định: “Khâu cung ứng thực phẩm trong nước hiện nay chủ yếu theo mô hình truyền thống với nhiều tầng nấc trung gian, khiến người tiêu dùng không thể tương tác trực tiếp với hộ nông dân. Nếu các DN thâu tóm chiếm đa số từ một quốc gia thì sẽ không tác động đến chuỗi cung ứng Việt Nam trong thời gian ngắn hạn. Tuy nhiên, dưới áp lực cạnh tranh từ nông sản nước ngoài đến người tiêu dùng cuối, ngành nông Việt phải cải tiến và cạnh tranh mạnh mẽ hơn nếu không muốn bị thất bại trên sân nhà”.
Khó khăn đâu chỉ là đối phó với DN Trung Quốc, khi Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) từng cảnh báo về nguy cơ DN FDI lợi dụng lỗ hổng trong quy định về hải quan và thuế để trốn và gian lận thuế. Chiêu trò phổ biến là chuyển giá, báo lỗ để tránh nộp thuế thu nhập. Nhưng vấn đề này nằm ở tầm vĩ mô, chỉ có các cơ quan chức năng mới đủ quyền hạn để bảo vệ kinh tế trong nước.
Để không thành ‘mồi ngon’
Hiện nay, nông sản Việt xuất đi được biết đến thông qua thương hiệu của nhà đầu tư ngoại vì tỷ trọng xuất khẩu của khối FDI chiếm trên 70%. Ngay cả nhà nhập khẩu ngoại có thương hiệu lâu đời như Café de Colombia, một thương hiệu quốc gia của Colombia cũng nhập nông sản thô Việt Nam về để chế biến, bán lại với giá cao hơn. Xuất thô, giá rẻ, không bảo hộ thương hiệu vẫn chưa được cải thiện chính là “tử huyệt” làm vị thế giá trị của nông sản không đúng với thực tế của nó, và đây cũng là mảnh đất màu mỡ để DN nước ngoài vào, bằng vốn, công nghệ, chiến lược bài bản, họ nhanh chóng “hốt bạc”.
Quá trình chuyển đổi số, xanh hóa trong nông nghiệp đang vào giai đoạn thực hiện ráo riết, nhưng sức ì không nhỏ. Bà Nguyễn Thị Thành Thực, Ủy viên ban chấp hành Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam nói tại Techfest, rằng nhà nông Việt phải học tập nhà nông Trung Quốc, chấp nhận quy luật của cuộc chơi thương mại điện tử và tuân thủ chất lượng nuôi trồng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Bên cạnh đó, nhà nước nên học tập cách hệ thống logistics Trung Quốc hậu thuẫn nông sản, ví dụ là các xe chở nông sản ở Trung Quốc được miễn phí cầu đường, đi hàng ngàn cây số không có trạm dừng. Cho nên, chi phí chở khoai tây từ Sơn Đông về đến Hà Nội mấy ngàn cây số bao gồm cả chi phí nhập khẩu mới bằng chi phí chở từ Đà Lạt ra Hà Nội.
Chính vì vậy mà theo Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Anh, nhà nước phải đầu tư hạ tầng logistics để vận chuyển hàng hóa nhanh chóng, kết nối chuỗi cung ứng xuất khẩu còn phân mảnh trong nước; xây dựng cơ chế sẵn sàng hỗ trợ tài chính để DN tự tin tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Giải pháp khả thi khác theo các chuyên gia, là kích thích các thương vụ M&A giữa các DN trong nước hoặc tăng cường hợp tác để nâng cao giá trị nông sản bằng cách đầu tư chế biến sâu, bỏ thói quen xuất khẩu nông sản thô, giá rẻ. Lúc đó, thị trường mới biết đến tên tuổi nông sản Việt và dĩ nhiên DN phải đầu tư đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở thị trường trong và ngoài nước.
Nếu M&A là giải pháp tối ưu hoá cho DN riêng lẻ nào đó, thì họ cần định vị mình là mục tiêu hấp dẫn và hiểu quyền được đưa điều kiện đàm phán, với nhà đầu tư quốc tế, theo Luật sư Leif D. Schneider. Để nâng cao vị thế trong đàm phán thì doanh nghiệp Việt cũng phải nâng tầm theo tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực ESG (môi trường – xã hội – quản trị) và tuân thủ minh bạch về sổ sách tài chính.
Sân chơi của ngành nông sản, thực phẩm chế biến đã và đang rất sôi động với khá nhiều nhãn mác đa quốc gia. Nếu DN trong nước thiếu chuẩn bị cạnh tranh tốt, thì sớm muộn trở thành “mồi ngon” cho DN nước ngoài. Thống kê của Bộ Công Thương, giá trị sản xuất của ngành sản xuất, chế biến thực phẩm chiếm tỷ trọng 19,1% trong nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam. Rõ ràng, tỷ trọng này cho thấy sản xuất, chế biến nông sản thực phẩm là khá mạnh với nhiều tên tuổi lớn, ổn định, có khả năng cạnh tranh cao so với các doanh nghiệp nước ngoài và còn nhiều dư địa cho sự phát triển. Tuy nhiên, số lượng DN hoạt động trong ngành sản xuất, chế biến thực phẩm không nhiều (gần 1% tổng số DN cả nước). Đây là khe hở mà DN nước ngoài nhòm ngó, khi DN nội không giữ được thị phần và thị trường.
Có một thực tế, là thấy được nguy cơ lẫn thế mạnh trên sân nhà, nên nhiều DN muốn ra tay chứ không chờ nhà nước, nhưng lại vấp phải rào cản. Tại hội nghị xúc tiến đầu tư các tỉnh Tây Nguyên hồi tháng 4/2024, các nhà đầu tư đã đề nghị muốn trót vốn vào nông sản, logistics tại vùng này khi tiềm năng nông sản, dược liệu rất lớn.
Ông Đặng Đình Long, CEO thương mại đầu tư Mega A nói việc tạo mã số vùng trồng, mã nhà đóng gói cho nông sản, dược liệu là cấp thiết, để đáp ứng các tiêu chuẩn nhập khẩu ngày càng khắt khe của nước ngoài. Doanh nghiệp này đề xuất xây dựng Trung tâm logistics xuyên biên giới tỉnh Kon Tum để trung chuyển hàng hóa giữa Lào – Việt Nam, với hệ thống bãi hạ tải hàng hóa 100ha và hai kho ngoại quan công suất 50.000 – 100.000 tấn hàng sắn lát tại Kon Tum, Gia Lai, bên cạnh đó là một quỹ đất 200 – 250ha xây chợ nông sản, thương mại tự do tập trung để giải quyết vấn đề về logistics, hàng hóa của vùng. Thế nhưng, để gỡ cho được câu chuyện thủ tục, chính sách vùng giáp biên, là không dễ.
M&A là chuyện đương nhiên, nhưng nếu không quyết liệt lột xác những rào cản về chính sách, vốn; không thay đổi tư duy sản xuất, chế biến; thiếu đột phá, liên kết trong làm ăn; mù mờ thông tin tài chính; không am hiểu luật pháp quốc tế… thì “ôm đầu máu”, mất trắng thương hiệu nông sản vào tay nước ngoài như bao lĩnh vực khác, là chuyện không xa.
Nguồn: Nông thôn Việt