Câu chuyện thành công

Đào Đức Hiếu: Chọn điều rực rỡ để không phí một lần ở trần gian

“Suối Giàng có gì đâu mà làm, mà phát triển?” “Không làm việc được với người Mông đâu”. Người ta đã “cảnh báo” Đào Đức Hiếu như thế, khi anh muốn xây một ngôi làng hạnh phúc trên đỉnh Suối Giàng cao trên 1.000m của tỉnh Yên Bái. Nhưng với bản tính lì và liều (như anh tự nhận), anh kiến trúc sư trẻ vẫn quyết tâm làm gì đó để góp phần xóa nghèo cho cộng đồng 5.000 người Mông ở vùng đất 135 này. “Suối Giàng lúc nào cũng được giới thiệu là vùng đất đặc biệt khó khăn, nghe chán quá. Tôi muốn sau này mọi người sẽ nói về Suối Giàng là vùng đất hạnh phúc và thịnh vượng”, anh nói.
Không hẹn mà gặp, ý tưởng về ngôi làng của Hiếu cũng trùng với định hướng của tỉnh Yên Bái – nơi đầu tiên trên cả nước lấy chỉ số hạnh phúc để đo lường sự phát triển của tỉnh. Chính vì vậy, các chương trình của anh đã nhận được sự ủng hộ tích cực từ tỉnh ủy, huyện ủy. Tạp chí Nông thôn Việt đã có buổi gặp gỡ và lắng nghe câu chuyện của chàng trai đặc biệt này.

Tại sao một chàng kiến trúc sư Hà Nội lại lang thang lên tận đỉnh núi cao nơi chỉ có rừng nguyên sinh, những gốc trà cổ thụ hàng trăm tuổi và có đến hơn 98% dân tộc Mông sinh sống?

Lên núi là một cơ duyên. Trước đây, tôi được giao nhiệm vụ làm giám đốc đề án Phát triển Du lịch và Thương hiệu tỉnh Yên Bái. Tôi đi qua tất cả các xã của tỉnh nghèo này, cố gắng tìm ra một điểm gì đó đặc biệt về thiên nhiên, con người để làm thương hiệu.

Dừng chân đứng lại Suối Giàng trong ánh hoàng hôn, tôi không thể rời mắt khỏi thiên nhiên đầy mộng ảo. Tôi biết mình sẽ gắn bó với vùng đất này nhiều năm sau nữa. Suối Giàng là một vùng đầy tài nguyên, có đá ngọc bích, có văn hóa Mông thấm đẫm bản sắc, có không khí sạch và đặc biệt là có đến 10.000 gốc chè shan tuyết cổ thụ, trong đó có 400 gốc chè là cây di sản Việt Nam.

Từ năm 1973, ông nội tôi, một người thích uống trà, đã dừng chân lại Suối Giàng và đề tặng một bài thơ: “Chót vót trên cao đỉnh Suối Giàng/ Một vùng rộng lớn giống chè shan/ Cây to tán rộng vươn trong gió/ Cành lớn búp non nổi tiếng vang”. Ngày đấy, ông đã đề nghị đặt tên “Đại lão vương trà” (Vua các loài trà cổ thụ) cho trà Suối Giàng, nhưng chưa thành… Nên nay tôi muốn thực hiện mong ước năm xưa của ông.

Đến nay thì anh đã thực hiện được mong ước của ông nội, đó là cho ra một thương hiệu trà “Đại lão vương trà”, và còn làm nhiều hơn thế là cùng một người bạn xây dựng “Không gian văn hóa trà Suối Giàng” được nhiều người biết đến…

Advertisement

Tất cả cũng chỉ hướng đến mục tiêu đưa trà cổ thụ Suối Giàng trở thành “quốc bảo” của Việt Nam. Mà muốn trở thành “quốc bảo” thì trước tiên trà cổ thụ phải được xem là “tỉnh bảo”, “huyện bảo” và thậm chí là “xã bảo”, nghĩa là chính quyền với người dân ở đây phải biết quý cây chè cổ trước, chứ không phải cần làm nhà, sửa bếp thì họ sẵn sàng chặt cây đi. Họ phải biết cách pha trà, dâng trà và làm dịch vụ mời chào tiếp đãi khách. Họ cũng phải biết làm trà thế nào để bán với giá gấp mười lần giá đang bán.

Nhưng đúng là rất khó để hướng dẫn người Mông làm dịch vụ, làm du lịch, bởi họ đã quen với nếp sống hoang dã. Tôi tự hỏi mình sẽ làm du lịch kiểu gì khi cả đỉnh núi không có nổi một cái nhà vệ sinh?

“Không làm việc được với người Mông đâu”, anh đã thấm lời cảnh báo này chưa?

Thấm lắm. Đã có một thời gian khi xây dựng Không gian văn hóa trà, tôi bị ám ảnh bởi câu nói: “A Hiếu mày đi về đi” (người Mông chỉ xưng mày – tao). Tôi làm gì họ cũng xua đuổi. Tôi cứ nghĩ mình mang điện đến thì họ phải vui mừng nhưng không phải như vậy. Người Mông – xưa được gọi là người Mèo, có khả năng nhìn thấy trong đêm tối. Vì vậy mà ánh điện khiến họ chói mắt và mất khả năng săn mồi trong bóng đêm. Sau này, tôi đã chuyển sang đèn lồng để giảm bớt cường độ ánh sáng. Những việc khác tôi làm về sau cũng cố tránh không phá vỡ cuộc sống bình yên ở Suối Giàng.

Sau này tôi nhận ra rằng, làm với người Mông chỉ khó khăn nếu anh làm cho xong việc, anh không sống cùng họ, chưa từng uống rượu ăn Tết cùng họ, cũng không cùng vượt qua những khắc nghiệt của thiên nhiên trên đỉnh núi. Thực tế, họ là những con người chăm chỉ, chỉ cần một người hướng dẫn cho họ cách làm kinh tế để có thu nhập và thoát nghèo. Lúc trước, tôi chỉ sống ở ven bản, tách biệt với họ, còn nay tôi đã sống ngay ở trung tâm bản và cùng người Mông làm việc để xây dựng những ngôi nhà khang trang. Tôi hay đùa với họ là: “Ở đây có đến 98% người Mông nên tao là người thiểu số, cần được bảo vệ, yêu thương và chăm sóc”.

Vậy anh đã “làm du lịch kiểu gì khi cả đỉnh núi không có nổi một cái nhà vệ sinh” và trong một cộng đồng người Mông hoang dã?

Tôi xây dựng “Giàng House – Nhà của bản em” ngay giữa bản. Năm nếp nhà khang trang có mái gỗ Pơ mu, cột gỗ, tường đá và có cây đào trước cổng. Giàng House làm bằng tay tất nhiên sẽ còn những cây cột cong vênh, những mái nhà còn hở, nhưng người Mông cảm thấy tự hào vì ngôi nhà được làm hoàn toàn bằng đôi tay của họ. Những người thợ đó sẽ về sửa sang lại ngôi nhà của mình, thoáng mát và khang trang không kém gì Giàng House. Họ sẽ tiếp tục phát triển nghề và truyền dạy cho lớp trẻ dựng nhà gỗ trên núi. Cứ như vậy mà những nét kiến trúc bản địa được bảo tồn.

Advertisement

Người Mông phục vụ tại Giàng House mặc đồng phục, nghỉ việc đã biết xin phép. Chuyện này không có gì to tát với người Kinh, nhưng với người Mông là “kỳ tích” chưa từng có. Họ hiểu làm du lịch đơn giản là “ngồi ở nhà và người ta mang tiền đến”. Tôi thuyết phục chủ 14 căn nhà phá bỏ tường rào, làm mô hình kinh tế chia sẻ. Khi đó, Enna Glamping ra đời, là nơi để du khách hoà mình với thiên nhiên và tận hưởng những sản phẩm trà shan tuyết cổ thụ danh tiếng.

Tôi nói với họ là muốn người ta mang tiền đến thì hãy sửa sang lại ngôi nhà, quét dọn sạch sẽ, trồng hoa quanh nhà, lắp nước nóng, thay chăn gối màu trắng sạch sẽ. Những điều này có vẻ không dễ dàng đối với cộng đồng người Mông cả năm chỉ tắm đôi lần, và chỉ giặt quần áo vào mùa nắng. Vậy mà nhiều người trong số họ đã tin theo tôi.

Một lần, anh Phan Đăng Sơn – Chủ tịch Hội KTS Việt Nam ghé thăm Suối Giàng, anh ngạc nhiên khi thấy Giàng House đúng như mô hình kiến trúc nông thôn mà những người tâm huyết đang muốn xây dựng và bảo tồn. Nói thật, trước đó tôi chưa từng nghĩ về sứ mệnh bảo tồn kiến trúc nông thôn.

Tôi làm Giàng House và Enna Glamping đơn giản vì muốn tạo sinh kế cho người Mông, giảm bớt tình trạng ly hương. Sau kỳ nghỉ Tết dài ngày, tôi bắt gặp hình ảnh những người phụ nữ Mông bồng con đưa tiễn chồng đi làm xa, vì trong bản chẳng có việc gì cho họ làm. Không ai muốn xa vợ con, xa cha mẹ già nếu không phải vì sinh kế cho cả gia đình. Giàng House được làm từ những người dân bản địa, góp phần vào việc tạo sinh kế tại chính nơi họ sinh ra và lớn lên. Không còn phải đi làm xa, người vợ không phải xa chồng, người bố không phải xa con và người con trưởng thành có thêm thời gian chăm sóc bố mẹ già…

Nhưng có lẽ dù có làm cái gì, người Mông ở đây cũng không thể rời xa cây chè cổ thụ. Bởi nó đã gắn bó với họ qua nhiều thế hệ trong hàng trăm năm qua, đúng không anh?

Đúng vậy, nên tôi đã tập hợp tất cả những nghệ nhân làm trà trong xã và nói với họ rằng, trà shan tuyết cổ thụ Suối Giàng sẽ trở thành “quốc bảo” và phải được bán với giá gấp mười lần giá hiện tại! Và muốn bán giá như vậy, chúng ta phải thay đổi cách thu hoạch, chế biến, bao bì tiêu chuẩn quốc tế và đăng ký bản quyền, thương hiệu… mà đặc biệt nhất phải thu hái chọn lọc, bởi vì nguyên liệu ban đầu quyết định chất lượng sản phẩm.

Advertisement

Tuy nhiên, tôi nói… không ai tin! Vậy trà của A Hiếu bán với giá gấp 10 lần người khác có ai mua không? Xin thưa, năm đầu tiên không ai mua cả! Nhưng không bao lâu sau, người ta bắt đầu tò mò vì sao trà của tôi bán giá cao như vậy, thậm chí có những loại trà giá 50 triệu/kg. Tôi kể rất thật rằng đây là những lá trà được lựa kỹ trước khi hái từ những cây chè hơn 300 tuổi. Búp chè được người dân bản địa thu hái vào lúc ban mai, khi sương còn giăng trên từng lá non. Những cây chè hàng trăm năm tuổi chỉ sống bằng linh khí đất trời, không phun tưới bất cứ loại nước hay hóa chất nào. Trà được lên men tự nhiên, nên càng để lâu càng có giá trị.

Ngày xưa, thầy hiệu trưởng trường Vân Nam (Trung Quốc) nơi tôi theo học từng cất trà trong két sắt, còn tiền thì cất ở hộc tủ. Với những nghệ nhân trà thế giới, trà quý hơn tiền là vậy. Nếu trà Việt Nam chỉ mãi bán lấy số lượng, không quan tâm đến việc nâng cao chất lượng và giá trị, thì chúng ta mãi chỉ là “vùng nguyên liệu” và làm lợi cho các nước có thương hiệu về trà mà thôi.

Vậy anh làm thế nào để những con người Mông quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” biết yêu quý và biết cách nâng cao giá trị của loại trà họ đang bán?

Tôi mở lớp dạy cách pha trà cho các em nhỏ từ 6 đến 12 tuổi, gọi là “Lớp học chia sẻ”. Trẻ con người Mông gắn với cây chè từ lúc mới lọt lòng, chúng lớn lên với cây chè, trưa ngủ trên võng lắc lư dưới tán lá chè. Tôi dạy chúng pha trà để chúng hiểu giá trị của cái cây quen thuộc ngay bên nhà. Khi dạy pha trà, tôi đồng thời cũng dạy về lễ nghi, tác phong nữa. Thực ra, khả năng thẩm định mùi vị của trẻ con tốt hơn người lớn, điều này rất có lợi trong việc pha và nếm trà. Hình ảnh một đứa trẻ mặc quần áo đẹp, đĩnh đạc dâng từng cốc trà mời sẽ khiến cha mẹ, ông bà chúng ấn tượng và thích thú. Khi đó, cha mẹ đưa bé cũng tò mò mà đi học theo.

Tôi ấn tượng mãi với hình ảnh một cô bé người Trung Quốc ở Lễ hội trà quốc tế năm 2019. Cô bé rất tự tin pha trà và giao lưu với nghệ nhân đến từ hơn 100 quốc gia trên thế giới. Nhìn thấy tôi, cô bé hỏi: “Chú đến từ Việt Nam à, chú ở Tây Côn Lĩnh (Hà Giang), Tà Xùa (Sơn La) hay Suối Giàng (Yên Bái)? Việt Nam chú có 9 vùng cổ thụ nhưng chỉ có 3 vùng biết làm trà thôi!”. Chỉ mới 13 tuổi, cô bé đã rất rành về bản đồ trà thế giới, trong đó có Việt Nam. Đứa anh trai của cô bé đứng gần đó nói thêm: “Việt Nam chỉ là cái vườn trà của chúng tôi thôi!”. Câu nói của cậu bé khiến tôi chết lặng giây lát.

Tôi nén nỗi đau, đưa mẫu trà mang theo để cô bé pha. Cô nói: “Tại sao chú lại mang trà vừa làm xong sang đây? Ở bên nước cháu, trà làm xong phải để 5 năm thành lão trà rồi mới mang đi bán!”. Tôi bèn đưa loại trà lâu năm hơn, nói rằng “đây mới là lão trà”. Cô bé làm các động tác pha, ngửi, soi bã trà một cách chuyên nghiệp rồi nói: “Trà này chưa được 4 năm tuổi, không thể gọi là lão trà!”. Đúng là loại trà cổ thụ đó chỉ mới hơn 3 năm. Một cô bé ở tuổi rong chơi đã khiến tôi và không ít người thán phục.

Advertisement

Anh kỳ vọng những đứa trẻ Mông ở “Lớp học chia sẻ” sẽ được đào tạo thành những cô bé, cậu bé ngửi trà như máy vậy sao?

Không đâu, để đạt trình độ như vậy trẻ con Trung Quốc đã học trà từ 3 – 4 tuổi. Và việc học của chúng chỉ tập trung vào mỗi trà thôi vì chúng biết đó là sự nghiệp của 3 – 4 thế hệ gia đình. “Lớp học sẻ chia” dạy cho trẻ con về trà, kỹ năng sống và tiếng Anh. Dạy về trà đơn giản là để các thế hệ sau biết quý trà cổ thụ, biết dùng kỹ thuật mời trà để tiếp cận thế giới.

Chẳng hạn như một đứa trẻ bình thường khó tiếp cận được với quan chức, nhưng một đứa trẻ người Mông đã mời trà cả Bí thư tỉnh Yên Bái hay Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Những đứa trẻ trên núi cũng cần được học về kỹ năng sống và tiếng Anh bởi đây là công cụ để tìm hiểu về thế giới. Chúng sẽ được kết nối để cùng học trên mạng với trẻ con ở Hà Nội.

Tôi tin rằng vào một ngày nào đó không xa, cậu bé người Mông sẽ cùng người bạn ở thủ đô đi xem nhạc ở nhà hát thành phố. Cô tiểu thư Hà Nội sẽ được chàng trai Mông đưa đi xem khu rừng nguyên sinh và kể chuyện về trà cổ thụ. Giáo dục sẽ giúp cho trẻ con người Mông không giới hạn nơi đáy giếng Suối Giàng. Bố mẹ người Mông có thể ở vùng đất nghèo 135 nhưng con cái của họ sẽ là những người chủ tương lai của đỉnh núi này.

Có thể thấy, anh đã xây dựng cả một hệ sinh thái du lịch cộng đồng ở Suối Giàng, từ “Ngôi làng hạnh phúc” đến “Không gian văn hóa trà”, “Giàng House – Ngôi nhà của bản em”, du lịch kết nối thiên nhiên và homestay ở chính trong ngôi nhà người Mông… Rồi anh dạy cho trẻ con biết mời trà, dạy người lớn biết làm du lịch. Trà Suối Giàng đã trở thành “tỉnh bảo” như anh kỳ vọng. Như thế đã đủ cho sứ mệnh của anh nơi đây chưa?

Những gì làm được ở Suối Giàng chỉ như là bước đầu tiên trong dự án của cuộc đời tôi. Mục tiêu lớn là làm cho trà trở thành “quốc bảo”. Tôi xem Suối Giàng như mô hình mẫu để phát triển thương hiệu cho trà cổ thụ ở 9 vùng trà cổ trên cả nước, và sau đó là các vùng trồng trà hữu cơ.

Với mục tiêu này thì tôi còn rất nhiều việc phải làm! Chẳng hạn như phải có một hệ thống “Vietnam tea shop Organic” để mọi người có thể mua trà hữu cơ từ khắp mọi nơi trên đất nước. Du khách nước ngoài khi đến Việt nam chỉ cần đến đây là mua được trà chất lượng. Rồi tôi dự kiến tổ chức “Mountain tea festival” để đưa các nghệ nhân trà thế giới về thẩm định và giới thiệu trà Việt Nam. Ở đó, còn có các cuộc thi trà cũng như hoạt động đấu giá để định giá lại trà cổ thụ của chúng ta.

Advertisement

Và một mục tiêu lớn nữa là cùng người dân ở các vùng nguyên liệu làm trà tử tế. Tôi muốn chúng ta cùng làm 1 tấn trà bán với giá 10 triệu hơn là 10 tấn trà bán với giá 1 triệu đồng. Tất nhiên đây đều là những mục tiêu lớn mà tôi không thể nào làm được nếu chỉ độc hành. Nhưng như hành trình bốn năm đầy chông gai trước đây, tôi tin mình cứ làm đúng thì sẽ có người đồng hành ở những thời điểm khác nhau. Mỗi chúng ta đều có những sức mạnh tiềm ẩn, tôi muốn đánh thức những gã khổng lồ đang ngủ quên bên trong mỗi con người. Ai cũng chỉ sống một lần trong đời, sao không chọn làm điều rực rỡ để không uổng công một lần có mặt ở trần gian?

Cảm ơn anh về câu chuyện đầy cảm xúc.

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Được quan tâm

Exit mobile version