Nếu không thay đổi cách thức tham gia, chúng ta sẽ bị loại bỏ khỏi cuộc chơi. Cho nên, đây không còn là lựa chọn mà đây là cái ‘quyền đi bắt buộc’ chúng ta phải thực hiện trong thời gian tới.
Đó là chia sẻ của PGS.TS Nguyễn Đình Thọ – Viện trưởng Viện chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) với Tạp chí Nông thôn Việt xung quanh vấn đề phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam.Thưa ông, đang phổ biến lối nhìn nhận khá đơn giản, rằng kinh tế xanh chỉ tập trung ở sản xuất hàng hóa theo tiêu chuẩn xanh…
PGS.TS Nguyễn Đình Thọ: Kinh tế xanh là một mục tiêu bao trùm, trong đó chúng ta hướng tới mục tiêu phát triển bền vững; bao gồm 3 trụ cột là kinh tế, xã hội và môi trường.
Chính vì vậy, kinh tế xanh hướng tới mục tiêu giải quyết được 3 cuộc khủng hoảng toàn cầu liên quan tới biến đổi khí hậu, liên quan đến ô nhiễm môi trường, liên quan đến suy giảm đa dạng sinh học… để đảm bảo thế giới của chúng ta tuần hoàn như rừng Amazon.
Có thể nói rằng, kinh tế xanh là một mục tiêu và cũng là cách thức để chúng ta đạt được một nền kinh tế phát triển bền vững.
Cho nên chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, không chỉ bao gồm việc giảm phát thải, giảm ô nhiễm, giảm suy giảm đa dạng sinh học; mà còn bao gồm cả mục tiêu về đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo an sinh, an toàn; cải thiện cuộc sống của người lao động và cộng đồng dân cư xung quanh các dự án mà chúng ta phát triển.
‘Kinh tế nâu’ vẫn chủ đạo
Kinh tế xanh, Việt Nam đã đặt vấn đề nhiều năm rồi, nhưng ta thực sự thấy mình đang ở đâu khi và chỉ khi đặt cạnh thế giới, gần nhất là trong khối ASEAN. Và tất nhiên, thực tế trong nước cho thấy rằng “mảng xanh” hiếm hoi quá.
Về thực trạng kinh tế xanh, Việt Nam đang đứng thứ 79/160 quốc gia, có nghĩa là chúng ta đang ở top 50%.
Về tốc độ tăng trưởng kinh tế xanh, chúng ta đang đạt khoảng 12 – 14%/năm, ở top 25% trên thế giới.
Còn về mục tiêu và chỉ tiêu trong cải thiện hạ tầng xanh, cũng như tăng trưởng và phát triển kinh tế xanh trong thời gian vừa qua, do quy mô nền kinh tế xanh của chúng ta đang còn rất nhỏ, đến năm 2020 kinh tế xanh chúng ta đạt khoảng 2% và hiện nay quy mô này đạt khoảng 4 – 4,5%, chính vì vậy “nền kinh tế nâu” vẫn là nền kinh tế chủ đạo.
‘Hấp thụ’ cơ hội, cần thuốc… tăng lực
Cụm từ “cơ hội và thách thức”, nói thẳng quá quen thuộc, nhưng không thể không dùng tới. Theo cái nhìn của tôi, kinh tế xanh tại Việt Nam, thách thức nhiều hơn cơ hội, và thao tác hóa giải để biến thành cơ hội không dễ và nhanh, bởi lực cản quá nhiều…
Có thể nói, chúng ta có rất nhiều cơ hội để phát triển kinh tế xanh trong thời gian tới. Vì định hướng chung của toàn cầu là phải giải quyết được 3 cuộc khủng hoảng của hành tinh liên quan tới biến đổi khí hậu, liên quan tới ô nhiễm môi trường, liên quan đến sự suy giảm đa dạng sinh học.
Đây là thách thức, nhưng cũng là cơ hội để chúng ta có thể thu hút được nguồn lực tài chính và công nghệ xanh toàn cầu.
Để làm được việc này, chúng ta cần nâng cao năng lực của Chính phủ, của doanh nghiệp và của người dân thì mới có thể hấp thụ được tài chính xanh, tài chính khí hậu; cũng như hấp thụ được công nghệ xanh và công nghệ sạch trong thời gian tới.
Ai cũng biết và… biết
Có thực tế, doanh nghiệp biết rõ “nếu không xanh là chết”, nhưng đa số vẫn loay hoay, thậm chí đủng đỉnh tới đâu hay đó. Họ muốn thay đổi, nhưng khả năng không có, và không có cơ hội, cũng chẳng ai giúp họ.
Nhà nước, người dân và doanh nghiệp ở Việt Nam đều nhận thức rất rõ rằng nếu như không xanh hóa, không chuyển đổi xanh thì chúng ta sẽ gặp thách thức với việc xử lý tài nguyên, gặp thách thức đối với biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, tôi thấy doanh nghiệp nhận thức rất rõ yêu cầu của toàn cầu, cũng như yêu cầu của Việt Nam trong việc sản xuất, phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học.
Tuy nhiên, từ nhận thức đi đến hành động, tôi cho rằng còn có một khoảng cách khá xa.
Phần lớn các doanh nghiệp của chúng ta là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể… Chính vì vậy, cơ hội tiếp cận với công nghệ, tiêu chuẩn, cũng như yêu cầu của việc xanh hoá trên toàn cầu đang còn giới hạn.
Do đó, chúng ta cần phải rút ngắn khoảng cách giữa nhận thức về việc cần phải làm và hành động mà các doanh nghiệp, người dân, nhà nước cần phải thực hiện; để chúng ta có thể đạt được mục tiêu tổng thể.
Cuộc chơi không dành riêng cho doanh nghiệp
Câu chuyện chính sách là điều đáng bàn nhất. Có ý kiến rằng, ta có hết, nhưng không chịu làm, mà “tử huyệt” nằm ở chỗ không có qui hoạch, và cần tư duy lại chính sách, xem kinh tế xanh là cơ hội làm ăn, đầu tư chứ không phải là chủ trương đậm màu chính trị, đạo lý, thì mới thực hiện được. Ông nghĩ sao?
Tôi cho rằng việc giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hướng dẫn đào tạo cho doanh nghiệp (nhất là đại bộ phận các doanh nghiệp vừa và nhỏ), người dân và cả cơ quan quản lý nhà nước về các tiêu chuẩn và yêu cầu trên thế giới liên quan tới xanh hóa là vấn đề quan trọng. Bởi vì nó có ý nghĩa quyết định đến thành công của việc thực hiện chuyển đổi xanh.
Chúng ta cần phải xây dựng các nhà máy xanh đạt tiêu chuẩn LEED; cần phải sử dụng nước tuần hoàn; cần phải sử dụng năng lượng tái tạo để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng… Theo tôi, đây là ưu tiên số một.
Thứ hai, Chính phủ phải tạo điều kiện, hỗ trợ các cơ chế chính sách để doanh nghiệp có thể thu hút được các nguồn lực về tài chính xanh, trái phiếu xanh, tín dụng xanh; ưu đãi thuế, phí… nhằm giúp doanh nghiệp thực hiện việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, áp dụng các công nghệ sạch, công nghệ hiện có tốt nhất để thực hiện các mô hình sản xuất của mình, đáp ứng được quá trình chuyển đổi xanh của đất nước.
Thứ ba, luật chơi về thương mại và đầu tư toàn cầu đã thay đổi; nếu chúng ta không thay đổi cách thức tham gia thì chúng ta sẽ bị loại bỏ khỏi cuộc chơi về thương mại toàn cầu.
Cho nên, đây không còn là lựa chọn nữa, mà đây là cái quyền đi bắt buộc chúng ta phải thực hiện trong thời gian tới.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam phải nghiên cứu kỹ. Ví dụ về tín chỉ carbon, cơ chế định giá carbon được lựa chọn công nghệ như thế nào? Việc chuẩn bị thời gian để tổ chức triển khai một dự án phát triển bền vững như thế nào?
Quá trình tổ chức thực hiện dự án và quá trình kiểm kê, báo cáo sau khi thực hiện dự án có thể kéo dài từ 3 – 5 năm. Cho nên doanh nghiệp Việt Nam cần phải có sự chuẩn bị trước để đón được tất cả các cơ hội, huy động được nguồn lực tài chính xanh phục vụ cho quá trình phủ xanh.
Nguồn: Nông thôn Việt