Connect with us

Chuyển động xanh

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ: Phát triển xanh không còn là lựa chọn mà là ‘quyền đi bắt buộc’

Nếu không thay đổi cách thức tham gia, chúng ta sẽ bị loại bỏ khỏi cuộc chơi. Cho nên, đây không còn là lựa chọn mà đây là cái ‘quyền đi bắt buộc’ chúng ta phải thực hiện trong thời gian tới.
Đó là chia sẻ của PGS.TS Nguyễn Đình Thọ – Viện trưởng Viện chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) với Tạp chí Nông thôn Việt xung quanh vấn đề phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam.Thưa ông, đang phổ biến lối nhìn nhận khá đơn giản, rằng kinh tế xanh chỉ tập trung ở sản xuất hàng hóa theo tiêu chuẩn xanh…

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ: Kinh tế xanh là một mục tiêu bao trùm, trong đó chúng ta hướng tới mục tiêu phát triển bền vững; bao gồm 3 trụ cột là kinh tế, xã hội và môi trường.

Chính vì vậy, kinh tế xanh hướng tới mục tiêu giải quyết được 3 cuộc khủng hoảng toàn cầu liên quan tới biến đổi khí hậu, liên quan đến ô nhiễm môi trường, liên quan đến suy giảm đa dạng sinh học… để đảm bảo thế giới của chúng ta tuần hoàn như rừng Amazon.

Có thể nói rằng, kinh tế xanh là một mục tiêu và cũng là cách thức để chúng ta đạt được một nền kinh tế phát triển bền vững.

Advertisement

Cho nên chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, không chỉ bao gồm việc giảm phát thải, giảm ô nhiễm, giảm suy giảm đa dạng sinh học; mà còn bao gồm cả mục tiêu về đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo an sinh, an toàn; cải thiện cuộc sống của người lao động và cộng đồng dân cư xung quanh các dự án mà chúng ta phát triển.

‘Kinh tế nâu’ vẫn chủ đạo

Kinh tế xanh, Việt Nam đã đặt vấn đề nhiều năm rồi, nhưng ta thực sự thấy mình đang ở đâu khi và chỉ khi đặt cạnh thế giới, gần nhất là trong khối ASEAN. Và tất nhiên, thực tế trong nước cho thấy rằng “mảng xanh” hiếm hoi quá. 

Về thực trạng kinh tế xanh, Việt Nam đang đứng thứ 79/160 quốc gia, có nghĩa là chúng ta đang ở top 50%.

Về tốc độ tăng trưởng kinh tế xanh, chúng ta đang đạt khoảng 12 – 14%/năm, ở top 25% trên thế giới.

Còn về mục tiêu và chỉ tiêu trong cải thiện hạ tầng xanh, cũng như tăng trưởng và phát triển kinh tế xanh trong thời gian vừa qua, do quy mô nền kinh tế xanh của chúng ta đang còn rất nhỏ, đến năm 2020 kinh tế xanh chúng ta đạt khoảng 2% và hiện nay quy mô này đạt khoảng 4 – 4,5%, chính vì vậy “nền kinh tế nâu” vẫn là nền kinh tế chủ đạo.

Advertisement

‘Hấp thụ’ cơ hội, cần thuốc… tăng lực

Cụm từ “cơ hội và thách thức”, nói thẳng quá quen thuộc, nhưng không thể không dùng tới. Theo cái nhìn của tôi, kinh tế xanh tại Việt Nam, thách thức nhiều hơn cơ hội, và thao tác hóa giải để biến thành cơ hội không dễ và nhanh, bởi lực cản quá nhiều…

Có thể nói, chúng ta có rất nhiều cơ hội để phát triển kinh tế xanh trong thời gian tới. Vì định hướng chung của toàn cầu là phải giải quyết được 3 cuộc khủng hoảng của hành tinh liên quan tới biến đổi khí hậu, liên quan tới ô nhiễm môi trường, liên quan đến sự suy giảm đa dạng sinh học.

Đây là thách thức, nhưng cũng là cơ hội để chúng ta có thể thu hút được nguồn lực tài chính và công nghệ xanh toàn cầu.

Để làm được việc này, chúng ta cần nâng cao năng lực của Chính phủ, của doanh nghiệp và của người dân thì mới có thể hấp thụ được tài chính xanh, tài chính khí hậu; cũng như hấp thụ được công nghệ xanh và công nghệ sạch trong thời gian tới.

Ai cũng biết và… biết

Có thực tế, doanh nghiệp biết rõ “nếu không xanh là chết”, nhưng đa số vẫn loay hoay, thậm chí đủng đỉnh tới đâu hay đó. Họ muốn thay đổi, nhưng khả năng không có, và không có cơ hội, cũng chẳng ai giúp họ.

Advertisement

Nhà nước, người dân và doanh nghiệp ở Việt Nam đều nhận thức rất rõ rằng nếu như không xanh hóa, không chuyển đổi xanh thì chúng ta sẽ gặp thách thức với việc xử lý tài nguyên, gặp thách thức đối với biến đổi khí hậu.

Bên cạnh đó, tôi thấy doanh nghiệp nhận thức rất rõ yêu cầu của toàn cầu, cũng như yêu cầu của Việt Nam trong việc sản xuất, phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học.

Tuy nhiên, từ nhận thức đi đến hành động, tôi cho rằng còn có một khoảng cách khá xa.

Phần lớn các doanh nghiệp của chúng ta là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể… Chính vì vậy, cơ hội tiếp cận với công nghệ, tiêu chuẩn, cũng như yêu cầu của việc xanh hoá trên toàn cầu đang còn giới hạn.

Do đó, chúng ta cần phải rút ngắn khoảng cách giữa nhận thức về việc cần phải làm và hành động mà các doanh nghiệp, người dân, nhà nước cần phải thực hiện; để chúng ta có thể đạt được mục tiêu tổng thể.

Advertisement

Cuộc chơi không dành riêng cho doanh nghiệp

Câu chuyện chính sách là điều đáng bàn nhất. Có ý kiến rằng, ta có hết, nhưng không chịu làm, mà “tử huyệt” nằm ở chỗ không có qui hoạch, và cần tư duy lại chính sách, xem kinh tế xanh là cơ hội làm ăn, đầu tư chứ không phải là chủ trương đậm màu chính trị, đạo lý, thì mới thực hiện được. Ông nghĩ sao?

Tôi cho rằng việc giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hướng dẫn đào tạo cho doanh nghiệp (nhất là đại bộ phận các doanh nghiệp vừa và nhỏ), người dân và cả cơ quan quản lý nhà nước về các tiêu chuẩn và yêu cầu trên thế giới liên quan tới xanh hóa là vấn đề quan trọng. Bởi vì nó có ý nghĩa quyết định đến thành công của việc thực hiện chuyển đổi xanh.

Chúng ta cần phải xây dựng các nhà máy xanh đạt tiêu chuẩn LEED; cần phải sử dụng nước tuần hoàn; cần phải sử dụng năng lượng tái tạo để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng… Theo tôi, đây là ưu tiên số một.

Thứ hai, Chính phủ phải tạo điều kiện, hỗ trợ các cơ chế chính sách để doanh nghiệp có thể thu hút được các nguồn lực về tài chính xanh, trái phiếu xanh, tín dụng xanh; ưu đãi thuế, phí… nhằm giúp doanh nghiệp thực hiện việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, áp dụng các công nghệ sạch, công nghệ hiện có tốt nhất để thực hiện các mô hình sản xuất của mình, đáp ứng được quá trình chuyển đổi xanh của đất nước.

Thứ ba, luật chơi về thương mại và đầu tư toàn cầu đã thay đổi; nếu chúng ta không thay đổi cách thức tham gia thì chúng ta sẽ bị loại bỏ khỏi cuộc chơi về thương mại toàn cầu.

Advertisement

Cho nên, đây không còn là lựa chọn nữa, mà đây là cái quyền đi bắt buộc chúng ta phải thực hiện trong thời gian tới.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam phải nghiên cứu kỹ. Ví dụ về tín chỉ carbon, cơ chế định giá carbon được lựa chọn công nghệ như thế nào? Việc chuẩn bị thời gian để tổ chức triển khai một dự án phát triển bền vững như thế nào?

Quá trình tổ chức thực hiện dự án và quá trình kiểm kê, báo cáo sau khi thực hiện dự án có thể kéo dài từ 3 – 5 năm. Cho nên doanh nghiệp Việt Nam cần phải có sự chuẩn bị trước để đón được tất cả các cơ hội, huy động được nguồn lực tài chính xanh phục vụ cho quá trình phủ xanh.

Nguồn: Nông thôn Việt

Advertisement
Continue Reading
Advertisement
Bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển động xanh

Những chính sách nổi bật liên quan đến kinh tế có hiệu lực từ tháng 4/2025

Thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất.

Từ tháng 4/2025, nhiều chính sách mới liên quan đến lĩnh vực kinh tế có hiệu lực, trong đó nổi bật là thí điểm dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất, phân bổ vốn đầu tư công, quản lý kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh bền vững…

Thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại

Ngày 30/11/2024, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất. Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 1/4/2025.

Theo đó, tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 171/2024/QH15 nêu rõ, tổ chức kinh doanh bất động sản được nhận chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để thực hiện dự án thí điểm phải được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua.

Các dự án thí điểm phải áp ứng điều kiện như phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị; phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án phù hợp với chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở của địa phương đã được phê duyệt.

Các tổ chức kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản, đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Advertisement

Riêng trường hợp sử dụng diện tích đất quốc phòng, đất an ninh đã được quy hoạch đưa ra khỏi đất quốc phòng, đất an ninh để thực hiện dự án thí điểm thì phải đáp ứng các điều kiện trên và có văn bản chấp thuận của Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ Công an đối với đất an ninh.

Quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước 2026 – 2030

Nghị quyết số 70/2025/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2026 – 2030. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2025.

Theo Nghị quyết, việc phân bổ vốn phải bảo đảm tập trung, hiệu quả, không dàn trải, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội quốc gia. Nguyên tắc phân bổ gồm: Tuân thủ Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước; tăng cường huy động vốn ngoài ngân sách, giảm các thủ tục hành chính; ưu tiên các dự án quan trọng quốc gia, các công trình hạ tầng giao thông, kết nối vùng, chuyển đổi số, năng lượng, an ninh nguồn nước; đảm bảo tính công khai, minh bạch trong phân bố.

Thứ tự phân bổ vốn được xác định như sau:

Dự án đầu tư công khẩn cấp.

Advertisement

Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia.

Hoàn trả vốn ứng trước, thanh toán nợ đống xây dựng.

Dự án hoàn thành nhưng chưa được bố trí đủ vốn.

Chương trình sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi quốc tế.

Dự án PPP theo quy định về đầu tư đối tác công tư.

Advertisement

Nghị quyết cũng quy định các tiêu chí và định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương, vốn địa phương, vốn trong nước và vốn nước ngoài giai đoạn 2026 – 2030. Theo đó, các địa phương vùng miền núi, biên giới, hải đảo sẽ được ưu tiên phân bố vốn để thu hẹp khoảng cách phát triển.

Về định mức phân bổ vốn giai đoạn 2026 – 2030, sẽ dành tối đa không quá 30% vốn ngân sách Trung ương để bổ sung có mục tiêu cho địa phương và được phân bổ theo ngành, lĩnh vực (không bao gồm vốn các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia và vốn ODA, vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài).

Mức vốn ngân sách Trung ương còn lại được phân bổ cho các Bộ, cơ quan Trung ương theo ngành, lĩnh vực. Các Bộ, cơ quan Trung ương chịu trách nhiệm phân bổ cụ thể cho các chương trình, dự án theo đúng quy định của pháp luật và theo các nguyên tắc, thứ tự ưu tiên quy định tại Nghị quyết này.

Quy định mới về phí duy trì hệ thống kiểm tra chứng thư chữ ký số

Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 13/2025/TT-BTC về quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí dịch vụ duy trì hệ thống kiểm tra trạng thái chứng thư chữ ký số. Thông tư có hiệu lực từ ngày 10/4/2025.

Theo đó, đối tượng nộp phí, người nộp phí là các tổ chức có giấy phép kinh doanh dịch vụ tin cậy. Đối với giấy phép chứng thực chữ ký số công cộng còn hiệu lực theo Luật Giao dịch điện tử 51/2005/QH11, tổ chức được cấp phép vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nộp phí.

Advertisement

Mức thu phí dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng là 3.000 đồng/tháng/chứng thư chữ ký số cấp cho tổ chức, doanh nghiệp; dịch vụ cấp dấu thời gian, chứng thực thông điệp dữ liệu là 4.200.000 đồng/tháng/chứng thư chữ ký số cấp cho tổ chức cung cấp dịch vụ tin cậy.

Thời gian tính phí từ tháng chứng thư có hiệu lực đến tháng trước khi hết hạn, bị tạm dừng hoặc thu hồi.

Về quản lý và sử dụng phí, tổ chức thu phí được giữ lại 85% để trang trải chi phí hoạt động, nộp 15% vào ngân sách nhà nước. Nếu tổ chức thu phí là cơ quan nhà nước không được khoán chi, toàn bộ số phí thu được sẽ nộp ngân sách.

Quản lý kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh bền vững

Thông tư số 09/2025/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn cơ chế quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện “Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân kinh doanh bền vững giai đoạn 2022 – 2025” có hiệu lực từ ngày 20/4/2025.

Thông tư 09/2025/TT-BTC quy định các nội dung chi nhằm phát triển hệ sinh thái hỗ trợ kinh doanh bền vững, bao gồm: Xây dựng tài liệu về kinh doanh bền vững; kết nối doanh nghiệp với tổ chức tín dụng, nhà đầu tư; chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn về kinh doanh bền vững; bồi dưỡng nâng cao nhận thức; xây dựng mạng lưới chuyên gia tư vấn để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững.

Advertisement

Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh bền vững theo Chương trình 167 và quy định tại Nghị định số 80/2021/NĐ-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm xác định nội dung và đối tượng hỗ trợ theo đúng quy định. Việc xác định chi phí, kinh phí hỗ trợ và cơ chế hỗ trợ thực hiện theo Thông tư số 52/2023/TT-BTC. Mức hỗ trợ ngân sách cho từng nội dung áp dụng theo định mức cao nhất quy định tại Nghị định số 80/2021/NĐ-CP.

Nguồn: TTXVN

Đọc tiếp

Chuyển động xanh

Thị trường carbon Việt Nam sẽ giao dịch 2 loại hàng hóa chính

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Nghị định hướng dẫn việc tổ chức và vận hành thị trường sàn giao dịch carbon. Theo đó, 2 loại hàng hóa chủ lực sẽ được giao dịch gồm: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon.

Dự thảo quy định rõ, hàng hóa giao dịch trên sàn carbon bao gồm: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính, được phân bổ cho các cơ sở nằm trong danh mục phải kiểm kê khí nhà kính theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và tín chỉ carbon, được xác nhận từ các chương trình, dự án trong nước hoặc quốc tế, như cơ chế phát triển sạch (CDM), cơ chế tín chỉ chung (JCM) và cơ chế trao đổi theo điều 6 của thỏa thuận Paris.

Cả hai loại hàng hóa này trước khi được đưa lên giao dịch trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội đều phải được xác nhận và ghi nhận trên hệ thống đăng ký quốc gia do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý.

Việc xây dựng sàn giao dịch carbon là bước cụ thể hóa Luật Bảo vệ môi trường, đồng thời triển khai Đề án thành lập và phát triển thị trường carbon trong nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 232/QĐ-TTg ngày 21/1/2025.

Advertisement

Dự thảo nhấn mạnh: Giao dịch trên thị trường carbon phải tuân thủ nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch, đồng thời đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia. Các tổ chức, cá nhân khi tham gia giao dịch phải tự tìm hiểu quy định pháp luật, thông tin hàng hóa và chịu trách nhiệm với quyết định mua – bán của mình.

Các giao dịch sẽ được thực hiện theo phương thức thỏa thuận, tức là các bên tự đàm phán và nhập lệnh trên hệ thống. Có 2 hình thức: Thỏa thuận điện tử (nhập lệnh trực tiếp trên hệ thống) và thỏa thuận thông thường (thỏa thuận bên ngoài rồi báo cáo lên hệ thống để xác nhận).

Việc áp dụng phương thức thỏa thuận được xem là phù hợp với giai đoạn đầu của thị trường, khi số lượng chủ thể tham gia còn hạn chế, thanh khoản chưa cao và đặc điểm hàng hóa, đặc biệt là tín chỉ carbon chưa được chuẩn hóa. Đây cũng là phương thức đang được áp dụng trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ và công cụ nợ Chính phủ.

Để thực hiện giao dịch, các cơ sở phát thải được phân bổ hạn ngạch sẽ mở tài khoản tại thành viên giao dịch. Các thành viên này sẽ thực hiện giao dịch thay mặt khách hàng, báo cáo kết quả và cung cấp sao kê giao dịch định kỳ hoặc theo yêu cầu.

Ngay sau khi giao dịch được xác lập, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội sẽ chuyển thông tin kết quả cho Tổng Công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) để thực hiện thanh toán theo cơ chế “tức thời theo từng giao dịch”, thay vì thông qua đối tác bù trừ trung tâm như thị trường chứng khoán.

Advertisement

Các giao dịch sẽ được thanh toán ngay trong ngày, thông qua ngân hàng thanh toán là các ngân hàng thương mại được Bộ Tài chính phê duyệt. Thành viên lưu ký phải mở tài khoản tiền tại ngân hàng này để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. VSDC sẽ đối chiếu thông tin, phong tỏa hàng hóa, xác nhận giao dịch hợp lệ và gửi yêu cầu thanh toán đến ngân hàng.

Dự thảo cũng đề xuất Bộ Tài chính lựa chọn một số ngân hàng thương mại làm ngân hàng thanh toán theo từng thời kỳ, tùy theo quy mô thị trường, tránh đầu tư dư thừa về hạ tầng công nghệ thông tin khi thị trường còn nhỏ.

Việc đưa sàn giao dịch carbon đi vào vận hành thí điểm là một bước tiến quan trọng trong lộ trình xây dựng thị trường carbon tại Việt Nam, một trong những công cụ kinh tế chủ lực để giảm phát thải, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và trung hòa carbon vào năm 2050 theo cam kết tại COP26.

Dù mới ở giai đoạn đầu, nhưng khuôn khổ pháp lý đang dần được hoàn thiện, với sự vào cuộc của nhiều bộ ngành liên quan. Khi vận hành ổn định, thị trường này sẽ mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp có công nghệ sạch, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi xanh trong sản xuất – kinh doanh tại Việt Nam.

Nguồn: DNSG

Advertisement

Đọc tiếp

Chuyển động xanh

Việt kiều mua nhà đất cần thủ tục gì?

Luật sư Nguyễn Văn Hậu

Việt kiều được hiểu là công dân Việt Nam đang cư trú và sinh sống ở ngoài lãnh thổ nước Việt Nam.

Họ có thể vẫn đang còn quốc tịch Việt Nam và/hoặc đang có quốc tịch của quốc gia họ đang sinh sống, nhưng gốc là người Việt.

Việt kiều – tức “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam”, và “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài”.

Theo luật Đất đai 2024, luật Kinh doanh bất động sản 2023, luật Nhà ở 2023 (đều có hiệu lực thi hành từ 1.1.2025), Việt kiều được phép đầu tư, mua nhà đất tại Việt Nam. Đây là những quy định mới so với trước đây.

Advertisement

Vì vậy, để sở hữu nhà đất tại Việt Nam, Việt kiều cần làm những thủ tục gì?

Luật sư Nguyễn Văn Hậu (Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.HCM) cho hay, điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, theo điều 8 luật Nhà ở thì phải có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ chứng minh tư cách Việt kiều hoặc người gốc Việt, và được phép nhập cảnh vào Việt Nam tại thời điểm mua bán, giao dịch.

Đối với người gốc Việt không còn quốc tịch Việt Nam cần có hộ chiếu nước ngoài hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế, kèm theo giấy tờ xác nhận là người gốc Việt Nam.

Để được cấp giấy xác nhận là người gốc Việt, hồ sơ cần chuẩn bị bao gồm giấy tờ nhân thân và giấy tờ chứng minh nguồn gốc Việt Nam.

Trong trường hợp không có giấy tờ trực tiếp, người gốc Việt có thể nộp giấy tờ do chế độ cũ cấp, giấy bảo lãnh của hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài, hoặc giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp có ghi quốc tịch Việt Nam.

Advertisement

Hồ sơ có thể nộp tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hoặc tại Bộ Ngoại giao, Sở Tư pháp khi đã về Việt Nam.

Theo quy định tại luật Đất đai, từ 1.8.2024, quyền mua đất của Việt Kiều chỉ hạn chế đối với “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài”.

Còn “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam” hoàn toàn có thể được nhận quyền sử dụng đất, được trực tiếp tham gia giao dịch bất động sản trong nước… từ 1.8.2024 mà không cần phải nhờ người thân trong nước đứng tên thực hiện giao dịch chuyển nhượng.

Còn người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền thuê mua nhà ở và nhận quyền sử dụng đất thông qua các dự án phát triển nhà ở. Luật Đất đai 2024 cũng cho phép được quyền thừa kế quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất khác theo quy định.

Luật Đất đai 2024 vẫn giữ nguyên quy định liên quan đến tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, và khu công nghệ cao (khoản c Điều 28 luật Đất đai 2024).

Advertisement

Khoản d Điều 28 luật Đất đai 2024 cũng quy định người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ được thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê đất.

Nguồn: Thanh Niên

Đọc tiếp

Được quan tâm