Connect with us

Chuyển động xanh

PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: ‘Thích ứng với xâm nhập mặn là xu thế tất yếu’

PGS.TS. Giảng viên cao cấp Nguyễn Đăng Tính - Phó giám đốc Phân hiệu trường Đại học Thủy lợi.

Xâm nhập mặn đã và đang là vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất cây trồng và đời sống kinh tế của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Dự báo xâm nhập mặn ở khu vực này tiếp tục tăng cao trong mùa khô năm 2025.

Liên quan đến vấn đề này, Nông thôn Việt đã có cuộc trao đổi với PGS.TS. Giảng viên cao cấp Nguyễn Đăng Tính – Phó Giám đốc Phân hiệu Trường Đại học Thủy lợi – một chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực quy hoạch, thiết kế và quản lý hệ thống thủy lợi đặc biệt liên quan đến các nghiên cứu chuyên sâu về hạn hán.

Ông có thể đánh giá về thực trạng và dự báo về vấn đề hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL năm nay sẽ như thế nào? Những khu vực nào ở ĐBSCL có nguy cơ chịu ảnh hưởng nặng nhất từ đợt xâm nhập mặn này?

PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Tình hình xâm nhập mặn ở ĐBSCL phụ thuộc vào nguồn nước từ thượng nguồn sông Mê Kông, triều cường, gió và còn bị ảnh hưởng bởi việc khai thác, sử dụng nước nội tại ở đồng bằng.

Lượng mưa trên lưu vực sông Mê Kông năm 2024 xấp xỉ trung bình nhiều năm nên dòng chảy về ĐBCSL mùa khô năm 2025 về cơ bản ở mức độ trung bình và xâm nhập mặn ở ĐBSCL cũng không có gì khác biệt nhiều, đỉnh điểm có thể vào khoảng cuối tháng 3, tháng 4.

Các đợt xâm nhập mặn khả năng đi sâu vào các cửa sông ở ĐBSCL, khoảng 30 – 40km và gây ảnh hưởng đến dân sinh, nông nghiệp, tình hình kinh tế – xã hội tại các vùng ven biển của các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang và Cà Mau.

Advertisement

Các địa phương ở vùng ĐBSCL cần cập nhật kịp thời các thông tin dự báo khí tượng thủy văn và có các biện pháp chủ động thích ứng với xâm nhập mặn như tích trữ nước ngọt khi triều thấp phục vụ sinh hoạt, nông nghiệp. Đồng thời, cần chủ động cho các hoạt động sản xuất khác sử dụng nước ngọt trong mùa khô.

Những nơi khan hiếm nước, cần nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, giữ gìn vệ sinh môi trường.

Trước nay chúng ta nói nhiều, bàn nhiều về cách ứng phó với vấn đề xâm nhập mặn “đến hẹn lại lên” và đưa ra rất nhiều giải pháp, vậy theo ông hiện nay giải pháp nào là tối ưu ?

PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Xâm nhập mặn là hiện tượng được coi như tự nhiên, hàng năm vẫn xuất hiện với các mức độ khác nhau phụ thuộc vào nguồn nước từ phía thượng nguồn, yếu tố ngoài cửa sông (triều, gió), lòng dẫn và sử dụng nước cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp (nước tưới) tại ĐBSCL.

Phía thượng nguồn về cơ bản chúng ta không can thiệp được nhiều, bên cạnh đó theo tính toán thì dòng chảy từ thượng nguồn chảy về ĐBSCL trong mùa khô không phải là ít, tuy nhiên đa phần chảy ra biển theo con triều.

Như vậy, để giảm thiểu tác động của xâm nhập mặn, các địa phương cần xây dựng kế hoạch và kịch bản thích ứng với xâm nhập mặn phù hợp, đảm bảo hạn chế thấp nhất thiệt hại cho người dân.

Advertisement

Đồng thời, các địa phương cần có kế hoạch điều hòa, phân phối nguồn nước ngọt hợp lý để đảm bảo cung cấp đầy đủ cho nhu cầu thiết yếu (sinh hoạt, chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp, công nghiệp) vào mùa khô.

Người dân cần có ý thức sử dụng tiết kiệm nước trong sản xuất, sinh hoạt kết hợp với trữ nước để sử dụng trong gia đình hay cộng đồng, chủ động lựa chọn loại cây trồng, điều chỉnh lịch thời vụ phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương.

Các hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL hiện nay đủ sức chống chọi hạn mặn và đảm bảo nguồn nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt không, thưa ông?

PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Công trình thủy lợi được Nhà nước quan tâm và đầu tư khá nhiều, tuy nhiên với hệ thống sông, kênh rạch phức tạp ở ĐBSCL thì hệ thống công trình thủy lợi còn nhiều tồn tại và cần nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống, sự kết nối giữa các hệ thống nhằm đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội, trong đó có nhiệm vụ điều hòa nguồn nước ngọt để phục vụ sản xuất và dân sinh.

Vẫn nhức nhối nạn khai thác cát và nước ngầm bừa bãi, mà xem ra chính quyền vẫn loay hoay trong ứng phó, trong khi đó là một trong những tác nhân khiến mặn xâm nhập sâu hơn…

PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Ở góc độ khoa học thì thấy rằng việc khai thác cát sẽ làm thay đổi hình thái sông, địa hình lòng dẫn và có tác động đến cơ chế xâm nhập mặn, tuy nhiên yếu tố chính ở đây vẫn là chế độ dòng chảy từ thượng lưu về ĐBSCL và sử dụng nước nội tại trên đồng bằng, chế độ triều và gió.

Đối với việc khai thác nước ngầm quá mức, làm giảm mực nước ngầm cũng góp phần trong việc gây lún sụt mặt đất, tuy nhiên vấn đề lún sụt cần có cái nhìn khách quan hơn khi ĐBSCL là vùng được hình thành từ trầm tích trẻ, được bồi đắp từ nguồn phù sa phong phú trên lưu vực sông Mê Kông. Tuy nhiên các hoạt động xây dựng đập phía thượng nguồn đã làm giảm lượng phù sa về đồng bằng, làm xói lở thêm trầm trọng hơn trên các sông chính.

Advertisement

Khi khai thác nước ngầm ở tầng nông (tầng trên cùng trong 7 tầng trữ nước ở đồng bằng) quá mức sẽ dẫn đến việc xâm lấn của nước biển vào tầng nước này và làm cho nước ngầm tầng này bị nhiễm mặn. Thường những vùng này là vùng ven biển, khan hiếm nước ngọt.

Việc mặn xâm nhập sâu hơn là do nguồn nước từ thượng nguồn đổ về ít, triều cường, gió và sử dụng nước cho nông nghiệp nhiều vào thời điểm khô hạn.

Liệu có hình dung được khả năng chống chịu hạn hán và xâm nhập mặn của ĐBSCL trong những năm tới?

PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Mặn xâm nhập vào sâu trong sông, kênh rạch của ĐBSCL gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân, và các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, xâm nhập mặn tập trung vào mùa khô, đỉnh điểm vào khoảng tháng 3, tháng 4.

Khả năng chống chịu (hay thích ứng của người dân) phụ thuộc vào nhận thức, ý thức trong việc ứng phó vì đây là hiện tượng hằng năm vẫn xảy ra, hơn nữa ĐBSCL là vùng ảnh hưởng triều với mức chênh lệch mực nước triều khá lớn, như vậy nhiều vùng người dân vẫn có thể lấy nước ngọt trong khi mặn xâm nhập.

Theo tôi, người dân cần chủ động hơn nữa trong các hoạt động tích nước, sử dụng nước tiết kiệm, thay đổi thời vụ cho phù hợp để thích ứng cho giai đoạn trước mắt.

Advertisement

Về lâu dài, cần có các giải pháp đồng bộ từ chính quyền và người dân để phát huy hết sức mạnh tiềm năng các nguồn lực để thích ứng và phát triển.

Thích ứng với biến đổi khí hậu, là chuyện nói mãi bao năm qua, nhưng “sống chung” xem ra vẫn là bài toán chưa được giải quyết triệt để.

PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Việc thích ứng với biến đổi khí hậu đang là tất yếu trên thế giới, với ĐBSCL cũng không là ngoại lệ.

Chúng ta đã có Nghị quyết 120/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, và Quyết định 287/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch đồng bằng sông cửu long tầm nhìn đến năm 2050.

Tuy nhiên, cần phải triển khai đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để phát huy hết tiềm lực phát triển kinh tế xã hội của vùng ĐBSCL.

Trong quá trình thực hiện các giải pháp đồng bộ, cần có sự kết hợp giữa người dân và chính quyền, giữa các vùng, các tỉnh liên đới với nhau để có thể phát huy hết tiểm năng nguồn lực (tự nhiên, con người).

Advertisement

Cần có tổng kết, đánh giá các hoạt động ứng phó, thích ứng với xâm nhập mặn hàng năm để rút ra bài học cho từng vùng, từng địa phương, cho người dân để từng bước tiếp cận đến việc thích ứng và phát triển bền vững.

Xin cảm ơn ông!

Nguồn: Nông thôn Việt

Advertisement
Continue Reading
Advertisement
Bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển động xanh

Những chính sách nổi bật liên quan đến kinh tế có hiệu lực từ tháng 4/2025

Thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất.

Từ tháng 4/2025, nhiều chính sách mới liên quan đến lĩnh vực kinh tế có hiệu lực, trong đó nổi bật là thí điểm dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất, phân bổ vốn đầu tư công, quản lý kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh bền vững…

Thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại

Ngày 30/11/2024, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất. Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 1/4/2025.

Theo đó, tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 171/2024/QH15 nêu rõ, tổ chức kinh doanh bất động sản được nhận chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để thực hiện dự án thí điểm phải được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua.

Các dự án thí điểm phải áp ứng điều kiện như phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị; phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án phù hợp với chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở của địa phương đã được phê duyệt.

Các tổ chức kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản, đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Advertisement

Riêng trường hợp sử dụng diện tích đất quốc phòng, đất an ninh đã được quy hoạch đưa ra khỏi đất quốc phòng, đất an ninh để thực hiện dự án thí điểm thì phải đáp ứng các điều kiện trên và có văn bản chấp thuận của Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ Công an đối với đất an ninh.

Quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước 2026 – 2030

Nghị quyết số 70/2025/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2026 – 2030. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2025.

Theo Nghị quyết, việc phân bổ vốn phải bảo đảm tập trung, hiệu quả, không dàn trải, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội quốc gia. Nguyên tắc phân bổ gồm: Tuân thủ Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước; tăng cường huy động vốn ngoài ngân sách, giảm các thủ tục hành chính; ưu tiên các dự án quan trọng quốc gia, các công trình hạ tầng giao thông, kết nối vùng, chuyển đổi số, năng lượng, an ninh nguồn nước; đảm bảo tính công khai, minh bạch trong phân bố.

Thứ tự phân bổ vốn được xác định như sau:

Dự án đầu tư công khẩn cấp.

Advertisement

Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia.

Hoàn trả vốn ứng trước, thanh toán nợ đống xây dựng.

Dự án hoàn thành nhưng chưa được bố trí đủ vốn.

Chương trình sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi quốc tế.

Dự án PPP theo quy định về đầu tư đối tác công tư.

Advertisement

Nghị quyết cũng quy định các tiêu chí và định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương, vốn địa phương, vốn trong nước và vốn nước ngoài giai đoạn 2026 – 2030. Theo đó, các địa phương vùng miền núi, biên giới, hải đảo sẽ được ưu tiên phân bố vốn để thu hẹp khoảng cách phát triển.

Về định mức phân bổ vốn giai đoạn 2026 – 2030, sẽ dành tối đa không quá 30% vốn ngân sách Trung ương để bổ sung có mục tiêu cho địa phương và được phân bổ theo ngành, lĩnh vực (không bao gồm vốn các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia và vốn ODA, vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài).

Mức vốn ngân sách Trung ương còn lại được phân bổ cho các Bộ, cơ quan Trung ương theo ngành, lĩnh vực. Các Bộ, cơ quan Trung ương chịu trách nhiệm phân bổ cụ thể cho các chương trình, dự án theo đúng quy định của pháp luật và theo các nguyên tắc, thứ tự ưu tiên quy định tại Nghị quyết này.

Quy định mới về phí duy trì hệ thống kiểm tra chứng thư chữ ký số

Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 13/2025/TT-BTC về quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí dịch vụ duy trì hệ thống kiểm tra trạng thái chứng thư chữ ký số. Thông tư có hiệu lực từ ngày 10/4/2025.

Theo đó, đối tượng nộp phí, người nộp phí là các tổ chức có giấy phép kinh doanh dịch vụ tin cậy. Đối với giấy phép chứng thực chữ ký số công cộng còn hiệu lực theo Luật Giao dịch điện tử 51/2005/QH11, tổ chức được cấp phép vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nộp phí.

Advertisement

Mức thu phí dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng là 3.000 đồng/tháng/chứng thư chữ ký số cấp cho tổ chức, doanh nghiệp; dịch vụ cấp dấu thời gian, chứng thực thông điệp dữ liệu là 4.200.000 đồng/tháng/chứng thư chữ ký số cấp cho tổ chức cung cấp dịch vụ tin cậy.

Thời gian tính phí từ tháng chứng thư có hiệu lực đến tháng trước khi hết hạn, bị tạm dừng hoặc thu hồi.

Về quản lý và sử dụng phí, tổ chức thu phí được giữ lại 85% để trang trải chi phí hoạt động, nộp 15% vào ngân sách nhà nước. Nếu tổ chức thu phí là cơ quan nhà nước không được khoán chi, toàn bộ số phí thu được sẽ nộp ngân sách.

Quản lý kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh bền vững

Thông tư số 09/2025/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn cơ chế quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện “Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân kinh doanh bền vững giai đoạn 2022 – 2025” có hiệu lực từ ngày 20/4/2025.

Thông tư 09/2025/TT-BTC quy định các nội dung chi nhằm phát triển hệ sinh thái hỗ trợ kinh doanh bền vững, bao gồm: Xây dựng tài liệu về kinh doanh bền vững; kết nối doanh nghiệp với tổ chức tín dụng, nhà đầu tư; chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn về kinh doanh bền vững; bồi dưỡng nâng cao nhận thức; xây dựng mạng lưới chuyên gia tư vấn để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững.

Advertisement

Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh bền vững theo Chương trình 167 và quy định tại Nghị định số 80/2021/NĐ-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm xác định nội dung và đối tượng hỗ trợ theo đúng quy định. Việc xác định chi phí, kinh phí hỗ trợ và cơ chế hỗ trợ thực hiện theo Thông tư số 52/2023/TT-BTC. Mức hỗ trợ ngân sách cho từng nội dung áp dụng theo định mức cao nhất quy định tại Nghị định số 80/2021/NĐ-CP.

Nguồn: TTXVN

Đọc tiếp

Chuyển động xanh

Thị trường carbon Việt Nam sẽ giao dịch 2 loại hàng hóa chính

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Nghị định hướng dẫn việc tổ chức và vận hành thị trường sàn giao dịch carbon. Theo đó, 2 loại hàng hóa chủ lực sẽ được giao dịch gồm: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon.

Dự thảo quy định rõ, hàng hóa giao dịch trên sàn carbon bao gồm: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính, được phân bổ cho các cơ sở nằm trong danh mục phải kiểm kê khí nhà kính theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và tín chỉ carbon, được xác nhận từ các chương trình, dự án trong nước hoặc quốc tế, như cơ chế phát triển sạch (CDM), cơ chế tín chỉ chung (JCM) và cơ chế trao đổi theo điều 6 của thỏa thuận Paris.

Cả hai loại hàng hóa này trước khi được đưa lên giao dịch trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội đều phải được xác nhận và ghi nhận trên hệ thống đăng ký quốc gia do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý.

Việc xây dựng sàn giao dịch carbon là bước cụ thể hóa Luật Bảo vệ môi trường, đồng thời triển khai Đề án thành lập và phát triển thị trường carbon trong nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 232/QĐ-TTg ngày 21/1/2025.

Advertisement

Dự thảo nhấn mạnh: Giao dịch trên thị trường carbon phải tuân thủ nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch, đồng thời đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia. Các tổ chức, cá nhân khi tham gia giao dịch phải tự tìm hiểu quy định pháp luật, thông tin hàng hóa và chịu trách nhiệm với quyết định mua – bán của mình.

Các giao dịch sẽ được thực hiện theo phương thức thỏa thuận, tức là các bên tự đàm phán và nhập lệnh trên hệ thống. Có 2 hình thức: Thỏa thuận điện tử (nhập lệnh trực tiếp trên hệ thống) và thỏa thuận thông thường (thỏa thuận bên ngoài rồi báo cáo lên hệ thống để xác nhận).

Việc áp dụng phương thức thỏa thuận được xem là phù hợp với giai đoạn đầu của thị trường, khi số lượng chủ thể tham gia còn hạn chế, thanh khoản chưa cao và đặc điểm hàng hóa, đặc biệt là tín chỉ carbon chưa được chuẩn hóa. Đây cũng là phương thức đang được áp dụng trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ và công cụ nợ Chính phủ.

Để thực hiện giao dịch, các cơ sở phát thải được phân bổ hạn ngạch sẽ mở tài khoản tại thành viên giao dịch. Các thành viên này sẽ thực hiện giao dịch thay mặt khách hàng, báo cáo kết quả và cung cấp sao kê giao dịch định kỳ hoặc theo yêu cầu.

Ngay sau khi giao dịch được xác lập, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội sẽ chuyển thông tin kết quả cho Tổng Công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) để thực hiện thanh toán theo cơ chế “tức thời theo từng giao dịch”, thay vì thông qua đối tác bù trừ trung tâm như thị trường chứng khoán.

Advertisement

Các giao dịch sẽ được thanh toán ngay trong ngày, thông qua ngân hàng thanh toán là các ngân hàng thương mại được Bộ Tài chính phê duyệt. Thành viên lưu ký phải mở tài khoản tiền tại ngân hàng này để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. VSDC sẽ đối chiếu thông tin, phong tỏa hàng hóa, xác nhận giao dịch hợp lệ và gửi yêu cầu thanh toán đến ngân hàng.

Dự thảo cũng đề xuất Bộ Tài chính lựa chọn một số ngân hàng thương mại làm ngân hàng thanh toán theo từng thời kỳ, tùy theo quy mô thị trường, tránh đầu tư dư thừa về hạ tầng công nghệ thông tin khi thị trường còn nhỏ.

Việc đưa sàn giao dịch carbon đi vào vận hành thí điểm là một bước tiến quan trọng trong lộ trình xây dựng thị trường carbon tại Việt Nam, một trong những công cụ kinh tế chủ lực để giảm phát thải, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và trung hòa carbon vào năm 2050 theo cam kết tại COP26.

Dù mới ở giai đoạn đầu, nhưng khuôn khổ pháp lý đang dần được hoàn thiện, với sự vào cuộc của nhiều bộ ngành liên quan. Khi vận hành ổn định, thị trường này sẽ mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp có công nghệ sạch, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi xanh trong sản xuất – kinh doanh tại Việt Nam.

Nguồn: DNSG

Advertisement

Đọc tiếp

Chuyển động xanh

Việt kiều mua nhà đất cần thủ tục gì?

Luật sư Nguyễn Văn Hậu

Việt kiều được hiểu là công dân Việt Nam đang cư trú và sinh sống ở ngoài lãnh thổ nước Việt Nam.

Họ có thể vẫn đang còn quốc tịch Việt Nam và/hoặc đang có quốc tịch của quốc gia họ đang sinh sống, nhưng gốc là người Việt.

Việt kiều – tức “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam”, và “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài”.

Theo luật Đất đai 2024, luật Kinh doanh bất động sản 2023, luật Nhà ở 2023 (đều có hiệu lực thi hành từ 1.1.2025), Việt kiều được phép đầu tư, mua nhà đất tại Việt Nam. Đây là những quy định mới so với trước đây.

Advertisement

Vì vậy, để sở hữu nhà đất tại Việt Nam, Việt kiều cần làm những thủ tục gì?

Luật sư Nguyễn Văn Hậu (Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.HCM) cho hay, điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, theo điều 8 luật Nhà ở thì phải có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ chứng minh tư cách Việt kiều hoặc người gốc Việt, và được phép nhập cảnh vào Việt Nam tại thời điểm mua bán, giao dịch.

Đối với người gốc Việt không còn quốc tịch Việt Nam cần có hộ chiếu nước ngoài hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế, kèm theo giấy tờ xác nhận là người gốc Việt Nam.

Để được cấp giấy xác nhận là người gốc Việt, hồ sơ cần chuẩn bị bao gồm giấy tờ nhân thân và giấy tờ chứng minh nguồn gốc Việt Nam.

Trong trường hợp không có giấy tờ trực tiếp, người gốc Việt có thể nộp giấy tờ do chế độ cũ cấp, giấy bảo lãnh của hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài, hoặc giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp có ghi quốc tịch Việt Nam.

Advertisement

Hồ sơ có thể nộp tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hoặc tại Bộ Ngoại giao, Sở Tư pháp khi đã về Việt Nam.

Theo quy định tại luật Đất đai, từ 1.8.2024, quyền mua đất của Việt Kiều chỉ hạn chế đối với “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài”.

Còn “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam” hoàn toàn có thể được nhận quyền sử dụng đất, được trực tiếp tham gia giao dịch bất động sản trong nước… từ 1.8.2024 mà không cần phải nhờ người thân trong nước đứng tên thực hiện giao dịch chuyển nhượng.

Còn người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền thuê mua nhà ở và nhận quyền sử dụng đất thông qua các dự án phát triển nhà ở. Luật Đất đai 2024 cũng cho phép được quyền thừa kế quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất khác theo quy định.

Luật Đất đai 2024 vẫn giữ nguyên quy định liên quan đến tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, và khu công nghệ cao (khoản c Điều 28 luật Đất đai 2024).

Advertisement

Khoản d Điều 28 luật Đất đai 2024 cũng quy định người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ được thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê đất.

Nguồn: Thanh Niên

Đọc tiếp

Được quan tâm