Liên quan đến vấn đề này, Nông thôn Việt đã có cuộc trao đổi với PGS.TS. Giảng viên cao cấp Nguyễn Đăng Tính – Phó Giám đốc Phân hiệu Trường Đại học Thủy lợi – một chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực quy hoạch, thiết kế và quản lý hệ thống thủy lợi đặc biệt liên quan đến các nghiên cứu chuyên sâu về hạn hán.
Ông có thể đánh giá về thực trạng và dự báo về vấn đề hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL năm nay sẽ như thế nào? Những khu vực nào ở ĐBSCL có nguy cơ chịu ảnh hưởng nặng nhất từ đợt xâm nhập mặn này?
PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Tình hình xâm nhập mặn ở ĐBSCL phụ thuộc vào nguồn nước từ thượng nguồn sông Mê Kông, triều cường, gió và còn bị ảnh hưởng bởi việc khai thác, sử dụng nước nội tại ở đồng bằng.
Lượng mưa trên lưu vực sông Mê Kông năm 2024 xấp xỉ trung bình nhiều năm nên dòng chảy về ĐBCSL mùa khô năm 2025 về cơ bản ở mức độ trung bình và xâm nhập mặn ở ĐBSCL cũng không có gì khác biệt nhiều, đỉnh điểm có thể vào khoảng cuối tháng 3, tháng 4.
Các đợt xâm nhập mặn khả năng đi sâu vào các cửa sông ở ĐBSCL, khoảng 30 – 40km và gây ảnh hưởng đến dân sinh, nông nghiệp, tình hình kinh tế – xã hội tại các vùng ven biển của các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang và Cà Mau.
Các địa phương ở vùng ĐBSCL cần cập nhật kịp thời các thông tin dự báo khí tượng thủy văn và có các biện pháp chủ động thích ứng với xâm nhập mặn như tích trữ nước ngọt khi triều thấp phục vụ sinh hoạt, nông nghiệp. Đồng thời, cần chủ động cho các hoạt động sản xuất khác sử dụng nước ngọt trong mùa khô.
Những nơi khan hiếm nước, cần nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, giữ gìn vệ sinh môi trường.
Trước nay chúng ta nói nhiều, bàn nhiều về cách ứng phó với vấn đề xâm nhập mặn “đến hẹn lại lên” và đưa ra rất nhiều giải pháp, vậy theo ông hiện nay giải pháp nào là tối ưu ?
PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Xâm nhập mặn là hiện tượng được coi như tự nhiên, hàng năm vẫn xuất hiện với các mức độ khác nhau phụ thuộc vào nguồn nước từ phía thượng nguồn, yếu tố ngoài cửa sông (triều, gió), lòng dẫn và sử dụng nước cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp (nước tưới) tại ĐBSCL.
Phía thượng nguồn về cơ bản chúng ta không can thiệp được nhiều, bên cạnh đó theo tính toán thì dòng chảy từ thượng nguồn chảy về ĐBSCL trong mùa khô không phải là ít, tuy nhiên đa phần chảy ra biển theo con triều.
Như vậy, để giảm thiểu tác động của xâm nhập mặn, các địa phương cần xây dựng kế hoạch và kịch bản thích ứng với xâm nhập mặn phù hợp, đảm bảo hạn chế thấp nhất thiệt hại cho người dân.
Đồng thời, các địa phương cần có kế hoạch điều hòa, phân phối nguồn nước ngọt hợp lý để đảm bảo cung cấp đầy đủ cho nhu cầu thiết yếu (sinh hoạt, chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp, công nghiệp) vào mùa khô.
Người dân cần có ý thức sử dụng tiết kiệm nước trong sản xuất, sinh hoạt kết hợp với trữ nước để sử dụng trong gia đình hay cộng đồng, chủ động lựa chọn loại cây trồng, điều chỉnh lịch thời vụ phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương.
Các hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL hiện nay đủ sức chống chọi hạn mặn và đảm bảo nguồn nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt không, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Công trình thủy lợi được Nhà nước quan tâm và đầu tư khá nhiều, tuy nhiên với hệ thống sông, kênh rạch phức tạp ở ĐBSCL thì hệ thống công trình thủy lợi còn nhiều tồn tại và cần nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống, sự kết nối giữa các hệ thống nhằm đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội, trong đó có nhiệm vụ điều hòa nguồn nước ngọt để phục vụ sản xuất và dân sinh.
Vẫn nhức nhối nạn khai thác cát và nước ngầm bừa bãi, mà xem ra chính quyền vẫn loay hoay trong ứng phó, trong khi đó là một trong những tác nhân khiến mặn xâm nhập sâu hơn…
PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Ở góc độ khoa học thì thấy rằng việc khai thác cát sẽ làm thay đổi hình thái sông, địa hình lòng dẫn và có tác động đến cơ chế xâm nhập mặn, tuy nhiên yếu tố chính ở đây vẫn là chế độ dòng chảy từ thượng lưu về ĐBSCL và sử dụng nước nội tại trên đồng bằng, chế độ triều và gió.
Đối với việc khai thác nước ngầm quá mức, làm giảm mực nước ngầm cũng góp phần trong việc gây lún sụt mặt đất, tuy nhiên vấn đề lún sụt cần có cái nhìn khách quan hơn khi ĐBSCL là vùng được hình thành từ trầm tích trẻ, được bồi đắp từ nguồn phù sa phong phú trên lưu vực sông Mê Kông. Tuy nhiên các hoạt động xây dựng đập phía thượng nguồn đã làm giảm lượng phù sa về đồng bằng, làm xói lở thêm trầm trọng hơn trên các sông chính.
Khi khai thác nước ngầm ở tầng nông (tầng trên cùng trong 7 tầng trữ nước ở đồng bằng) quá mức sẽ dẫn đến việc xâm lấn của nước biển vào tầng nước này và làm cho nước ngầm tầng này bị nhiễm mặn. Thường những vùng này là vùng ven biển, khan hiếm nước ngọt.
Việc mặn xâm nhập sâu hơn là do nguồn nước từ thượng nguồn đổ về ít, triều cường, gió và sử dụng nước cho nông nghiệp nhiều vào thời điểm khô hạn.
Liệu có hình dung được khả năng chống chịu hạn hán và xâm nhập mặn của ĐBSCL trong những năm tới?
PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Mặn xâm nhập vào sâu trong sông, kênh rạch của ĐBSCL gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân, và các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, xâm nhập mặn tập trung vào mùa khô, đỉnh điểm vào khoảng tháng 3, tháng 4.
Khả năng chống chịu (hay thích ứng của người dân) phụ thuộc vào nhận thức, ý thức trong việc ứng phó vì đây là hiện tượng hằng năm vẫn xảy ra, hơn nữa ĐBSCL là vùng ảnh hưởng triều với mức chênh lệch mực nước triều khá lớn, như vậy nhiều vùng người dân vẫn có thể lấy nước ngọt trong khi mặn xâm nhập.
Theo tôi, người dân cần chủ động hơn nữa trong các hoạt động tích nước, sử dụng nước tiết kiệm, thay đổi thời vụ cho phù hợp để thích ứng cho giai đoạn trước mắt.
Về lâu dài, cần có các giải pháp đồng bộ từ chính quyền và người dân để phát huy hết sức mạnh tiềm năng các nguồn lực để thích ứng và phát triển.
Thích ứng với biến đổi khí hậu, là chuyện nói mãi bao năm qua, nhưng “sống chung” xem ra vẫn là bài toán chưa được giải quyết triệt để.
PGS.TS Nguyễn Đăng Tính: Việc thích ứng với biến đổi khí hậu đang là tất yếu trên thế giới, với ĐBSCL cũng không là ngoại lệ.
Chúng ta đã có Nghị quyết 120/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, và Quyết định 287/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch đồng bằng sông cửu long tầm nhìn đến năm 2050.
Tuy nhiên, cần phải triển khai đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để phát huy hết tiềm lực phát triển kinh tế xã hội của vùng ĐBSCL.
Trong quá trình thực hiện các giải pháp đồng bộ, cần có sự kết hợp giữa người dân và chính quyền, giữa các vùng, các tỉnh liên đới với nhau để có thể phát huy hết tiểm năng nguồn lực (tự nhiên, con người).
Cần có tổng kết, đánh giá các hoạt động ứng phó, thích ứng với xâm nhập mặn hàng năm để rút ra bài học cho từng vùng, từng địa phương, cho người dân để từng bước tiếp cận đến việc thích ứng và phát triển bền vững.
Xin cảm ơn ông!
Nguồn: Nông thôn Việt