Connect with us

Chuyển động xanh

Chính sách tiền tệ và tài khóa thúc đẩy xanh hóa nền kinh tế

Phát triển kinh tế xanh không chỉ là định hướng, khuyến khích mà là xu thế tất yếu phải thực hiện trước cuộc chơi hội nhập kinh tế toàn cầu. Các quyết sách gần đây của Đảng, Nhà nước xác định nhất quán Việt Nam phải gia nhập nhanh vào xu thế nói trên, coi đó là động lực của tăng trưởng. Để hoàn thành sứ mệnh này, Việt Nam phải có lộ trình xanh hóa nền kinh tế với nhiều trụ cột, trong đó tâm điểm là chính sách tiền tệ và tài khóa…

Việt Nam với cam kết mạnh mẽ đưa phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 đã cho thấy quyết tâm của Đảng và Chính phủ trong việc phát triển nền kinh tế xanh, trung hòa carbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Quyết tâm đó đã được hoạch định trong: “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”.

Kinh tế xanh là động lực của tăng trưởng 

Gần nhất là Quyết định 1658/QĐ-TTg, ngày 1/10/2021, của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050 với mục tiêu tổng quát là tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường, công bằng về xã hội.

Advertisement

Khái niệm “tăng trưởng xanh” hiện đã được nhiều tổ chức trên thế giới đưa ra. Ủy ban Liên hợp quốc về kinh tế – xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương (UNESCAP) định nghĩa tăng trưởng xanh là chiến lược để đạt được phát triển bền vững. Trong khi đó, Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng tăng trưởng xanh là hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm cũng như các tác động môi trường, có khả năng thích ứng trước các hiểm họa thiên nhiên và vai trò của quản lý môi trường và vốn tự nhiên trong việc phòng ngừa thiên tai…

Kinh tế xanh (green economy) là một nền kinh tế nhằm cải thiện đời sống con người và tài sản xã hội, đồng thời chú trọng giảm thiểu những hiểm họa môi trường và sự khan hiếm tài nguyên (theo Chương trình môi trường Liên hợp quốc, 2010). Ý nghĩa của kinh tế xanh: tạo ra việc làm, bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững và ngăn chặn ô nhiễm môi trường, nóng lên toàn cầu, cạn kiệt nguồn tài nguyên và suy thoái môi trường.

Chủ trương, định hướng về phát triển nền kinh tế xanh đã rất rõ, vấn đề cụ thể hóa thành các chính sách và thực thi chính sách có hiệu quả, thúc đẩy mọi chủ thể trong nền kinh tế là doanh nghiệp, người dân cùng hành động theo đuổi mục tiêu chung là vô cùng cần thiết. Vì vậy, xanh hóa nền kinh tế phải bao hàm ba trụ cột gồm: (i) xanh hóa các chính sách phát triển; (ii) xanh hóa quản trị kinh doanh bằng việc theo đuổi các phương án, dự án xanh, sản phẩm xanh; (iii) xanh hóa lối sống và tiêu dùng.

Khi Việt Nam chú trọng việc tăng trưởng xanh và phát triển xanh trong quá trình chuyển dịch năng lượng thì có thể tiếp cận được nguồn tài chính xanh từ các tổ chức quốc tế đã được các nước phát triển cam kết. Cụ thể, trong chuyến thăm của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sang Liên minh châu Âu (EU), EU đã cam kết hỗ trợ 15,5 tỷ USD cho Việt Nam trong quá trình chuyển dịch năng lượng để tăng trưởng xanh.

Nhìn về dài hạn, Việt Nam là quốc gia bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu khi mất đi 1,5% GDP mỗi năm, theo tổng kết của WB. Vì vậy, nếu thực hiện tốt chiến lược tăng trưởng xanh và phát triển xanh sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam. Có thể nói, đây thời điểm tốt nhất để khuyến khích phát triển kinh tế xanh và tăng trưởng xanh nhằm tạo ra động lực mới cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.

Tâm điểm chính sách tiền tệ

Advertisement

Kiến tạo ra cơ chế chính sách để khuyến khích phát kinh tế triển xanh chính là trụ cột đóng vai trò quan trọng nhất, vừa có tính chất mở đường, vừa quyết định cho phát triển kinh tế xanh. Đây là trụ cột cần được xanh hóa trước tiên.

Hiểu theo nghĩa bao trùm, các chính sách tổng thể để huy động các nguồn lực từ tài chính, nguồn tài nguyên thiên nhiên, đến con người cho phát triển kinh tế đều hướng đến phát triển xanh; đó là: chính sách tiền tệ xanh; chính sách tài khóa xanh; chính sách năng lượng xanh; chính sách giao thông xanh; chính sách xây dựng xanh…

Cách đi này đã được phân chia nhiệm vụ các bộ, ngành tại quyết định Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020.

Ví dụ, nhiệm vụ giao cho Ngân hàng Nhà nước là: (i) rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế tài chính, tín dụng cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh; (ii) tổ chức đào tạo tập huấn nhằm tăng cường năng lực cho các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính trong hoạt động tài chính tín dụng xanh; (iii) xây dựng và phát triển các dịch vụ tài chính ngân hàng hỗ trợ các doanh nghiệp tăng trưởng xanh.

Trong các mảng chính sách cần xanh hóa theo ngành nghề phát triển nêu trên, hai chính sách quan trọng nhất là chính sách tiền tiền tệ và chính sách tài khóa cần có lộ trình, bước đi cụ thể bằng việc tạo lập ra cơ chế, sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ và tài khóa để khuyến khích, thúc đẩy việc sử dụng nguồn lực của nền kinh tế cho tăng trưởng xanh.

Advertisement

Sơ đồ 1 cho thấy, thứ nhất, khi các ngân hàng thương mại có hồ sơ tín dụng cho vay trung hạn, dài hạn dự án xanh, nắm giữ trái phiếu xanh của doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm cao, Ngân hàng Nhà nước có thể tái cấp vốn hoặc xem xét chiết khấu các trái phiếu xanh xếp hạng tín nhiệm cao với lãi suất thấp hơn, ví dụ giảm 0,5%/năm so với quy định. Điều này nhắm đến mục tiêu giải quyết 2 việc: (1) hỗ trợ giải quyết thanh khoản cho ngân hàng thương mại; (2) gián tiếp hỗ trợ giảm lãi suất tiền vay cho vay trung, dài hạn dự án xanh.

Thứ hai, trước đây Ngân hàng Nhà nước đã xem xét giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với nguồn tiền gửi của ngân hàng thương mại có tỷ lệ dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp từ 10% đến 20%, 30% và trên 50% theo các mức khuyến khích khác nhau, nay Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng chính sách này cho các ngân hàng thương mại có tỷ lệ dư nợ cho vay xanh cao từ 10% tổng dư nợ trở lên nhằm khuyến khích họ cân đối nhiều nguồn cho vay dự án, phương án sản xuất xanh.

Thứ ba, căn cứ Điều 10, Điều 11 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010; Khoản 5, Điều 149 Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 quy định rất rõ “Chính phủ ban hành lộ trình thực hiện và cơ chế khuyến khích cấp tín dụng xanh”. Vì vậy, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước trình việc thành lập và cơ chế hoạt động của quỹ tái cấp vốn xanh.

Về chính sách tiền tệ, Chính phủ có thể đẩy nguồn lực qua hệ thống ngân hàng vào các dự án xanh và phương án sản xuất xanh, thông qua việc giảm mức lãi suất tái cấp vốn và tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại, nhằm khuyến khích các ngân hàng cho vay các dự án xanh và sản xuất xanh, hỗ trợ ngân hàng có nguồn vốn trung và dài hạn nhiều hơn để tăng cường cho vay các dự án xanh. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước có thể giảm dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng cho vay nhiều vào các dự án xanh để dành nguồn vốn lớn hơn cho vay vào tăng trưởng xanh và kinh tế xanh như nêu trong diễn giải của sơ đồ 1.

Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước cũng có thể hình thành Quỹ tái cấp vốn xanh từ Quỹ dự trữ ngoại hối. Trên thế giới, Ngân hàng Trung ương của Banglades cũng có quỹ tái cấp vốn xanh khoảng 200 triệu USD để khuyến khích các tổ chức tín dụng rót vốn vào các dự án xanh. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc và Ngân hàng Trung ương Ấn Độ sử dụng mức tín dụng sàn nhằm yêu cầu tất cả tổ chức tín dụng phải có tỷ lệ tối thiếu cho vay 5% vào các dự án xanh; từng bước nâng lên 10% trong lộ trình 3 đến 5 năm và lên đến 20% dư nợ cho vay đối với dự án xanh.

Advertisement

Đây là cách truyền tải chính sách phát triển xanh của Chính phủ đến các định chế tài chính, các doanh nghiệp và những người hoạt động kinh tế trực tiếp (tức là từ thị trường tài chính đến nền kinh tế thực). Việt Nam với Quỹ dự trữ ngoại hối tới 100 tỷ USD, việc thành lập quỹ tái cấp vốn xanh từ 500 triệu USD hoặc hơn là hoàn toàn khả thi xét cả về pháp luật cũng như năng lực tài chính.

Vai trò đặc biệt của chính sách tài khoá và các chính sách khác

Trên hành trình xanh hóa nền kinh tế, không thể không nhắc đến vai trò đặc biệt của chính sách tài khóa cùng sự góp mặt của các chính sách khác.

Đơn cử, Khi Nhà nước giảm thuế VAT vừa tiết giảm chi phí cho nhà sản xuất, vừa khuyến khích tiêu dùng xanh nhiều hơn và đến lượt nó lại kích thích sản xuất xanh. Hay như, tuy đã có kinh nghiệm về giá Fix với năng lượng điện mặt trời, nhưng vẫn cần có khảo sát thị trường, đánh giá thấu đáo và có lộ trình áp dụng để không bị lợi dụng.

Ngoài ra, trong văn bản pháp luật về dự thầu, nếu sản phẩm của bên dự thầu các dự án công thì được cộng điểm (ví dụ: tối thiểu là 10 điểm tùy theo thang điểm) để đơn vị sản xuất xanh cạnh tranh tốt với đơn vị sản phẩm cung ứng không xanh. Nếu hai đơn vị bằng điểm nhau thì bên sản phẩm xanh được lựa chọn.

Advertisement

Với chính sách phát triển ngành, tùy theo chức năng nhiệm vụ, các bộ, ngành sau sắp xếp tinh gọn cần phải xây dựng các chính sách cụ thể để hướng các doanh nghiệp, người dân phát triển kinh tế, tiêu dùng xanh. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cần từng bước minh bạch hóa nguồn năng lượng sử dụng, nếu không tất cả các hàng hóa xuất khẩu phải đánh thuế carbon thì khó rất cạnh tranh với các nước trên thế giới.

Việt Nam đã có Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nghị định số 80/2021/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về hỗ trợ những chi phí tư vấn, đào tạo trong quản trị, phát triển quản trị trong doanh nghiệp; hỗ trợ về quản trị, tư vấn kiểm toán đối với doanh. Song, phần lớn doanh nghiệp không nhận được hỗ trợ này vì thủ tục rất phức tạp. Vì vậy, thời gian tới, các chính sách này cần phải minh bạch, giảm bớt các thủ tục hành chính và không tạo ra cơ chế xin – cho, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận hỗ trợ.

Không những vậy, Việt Nam cũng sẽ mất đi cơ hội đón các “đại bàng” lớn vào Việt Nam vì họ đòi hỏi năng lượng sạch để xuất khẩu hàng hóa đi toàn cầu. Trên thực tế, EU đã có lộ trình cho quy định này là trong 3 năm, còn Mỹ và Caribe – khu vực Nam Mỹ, sẽ không có lộ trình nếu như có luật thì thực hiện luôn. Vì vậy, Nhà nước rất cần thể chế hóa nhanh đối với từng ngành và lĩnh vực.

Song song với chính sách tiền tệ, tài khóa, cuộc chơi xanh hóa nền kinh tế còn phải chú trọng đến chiến lược xanh hóa quản trị doanh nghiệp cũng như tiêu dùng.

Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng Dự thảo định mức chi phí tái chế theo hướng hợp lý, thực thi tái chế hiệu quả, giúp bảo vệ môi trường và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Vì vậy, đây là thời điểm các doanh nghiệp cần sớm hoàn thiện mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn, hoặc mô hình sản xuất xanh, sạch từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm cung ứng ra thị trường. Cao hơn mô hình phát triển xanh, kinh tế xanh là mô hình phát triển bền vững, doanh nghiệp phải đạt được ba chuẩn mực về ESG (môi trường, xã hội và quản trị) với 17 mục tiêu về phát triển bền vững mà Việt Nam đã cam kết với Liên hợp quốc và đã được cụ thể hóa với hành vi xanh hóa của các doanh nghiệp.

Cùng với đó, đối với vấn đề xanh hóa lối sống và tiêu dùng, Nhà nước cần truyền thông mạnh mẽ để người dân sớm trở thành những người tiêu dùng thông minh, khi mua sắm phục vụ tiêu dùng cần tìm đến các sản phẩm đã được công bố chuẩn mực về xanh, môi trường (tức là bảo vệ môi trường và sức khỏe của bản thân).

Advertisement

Lối sống này không chỉ trong dân cư mà cần phải thực hiện trong các cơ quan công sở và công chức làm việc. Ngoài ra, người dân cũng cần nhận thức và sẽ tẩy chay tất cả những sản phẩm không thân thiện với môi trường, thậm chí tẩy chay những sản của doanh nghiệp công bố là xanh nhưng thực chất là hoạt động tẩy xanh (….)

TS. Phạm Xuân Hòe

Tổng thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng Nhà nước.

Nguồn: VnEconomy

Advertisement
Continue Reading
Advertisement
Bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển động xanh

Những chính sách nổi bật liên quan đến kinh tế có hiệu lực từ tháng 4/2025

Thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất.

Từ tháng 4/2025, nhiều chính sách mới liên quan đến lĩnh vực kinh tế có hiệu lực, trong đó nổi bật là thí điểm dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất, phân bổ vốn đầu tư công, quản lý kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh bền vững…

Thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại

Ngày 30/11/2024, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất. Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 1/4/2025.

Theo đó, tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 171/2024/QH15 nêu rõ, tổ chức kinh doanh bất động sản được nhận chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để thực hiện dự án thí điểm phải được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua.

Các dự án thí điểm phải áp ứng điều kiện như phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị; phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án phù hợp với chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở của địa phương đã được phê duyệt.

Các tổ chức kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản, đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Advertisement

Riêng trường hợp sử dụng diện tích đất quốc phòng, đất an ninh đã được quy hoạch đưa ra khỏi đất quốc phòng, đất an ninh để thực hiện dự án thí điểm thì phải đáp ứng các điều kiện trên và có văn bản chấp thuận của Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ Công an đối với đất an ninh.

Quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước 2026 – 2030

Nghị quyết số 70/2025/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2026 – 2030. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2025.

Theo Nghị quyết, việc phân bổ vốn phải bảo đảm tập trung, hiệu quả, không dàn trải, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội quốc gia. Nguyên tắc phân bổ gồm: Tuân thủ Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước; tăng cường huy động vốn ngoài ngân sách, giảm các thủ tục hành chính; ưu tiên các dự án quan trọng quốc gia, các công trình hạ tầng giao thông, kết nối vùng, chuyển đổi số, năng lượng, an ninh nguồn nước; đảm bảo tính công khai, minh bạch trong phân bố.

Thứ tự phân bổ vốn được xác định như sau:

Dự án đầu tư công khẩn cấp.

Advertisement

Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia.

Hoàn trả vốn ứng trước, thanh toán nợ đống xây dựng.

Dự án hoàn thành nhưng chưa được bố trí đủ vốn.

Chương trình sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi quốc tế.

Dự án PPP theo quy định về đầu tư đối tác công tư.

Advertisement

Nghị quyết cũng quy định các tiêu chí và định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương, vốn địa phương, vốn trong nước và vốn nước ngoài giai đoạn 2026 – 2030. Theo đó, các địa phương vùng miền núi, biên giới, hải đảo sẽ được ưu tiên phân bố vốn để thu hẹp khoảng cách phát triển.

Về định mức phân bổ vốn giai đoạn 2026 – 2030, sẽ dành tối đa không quá 30% vốn ngân sách Trung ương để bổ sung có mục tiêu cho địa phương và được phân bổ theo ngành, lĩnh vực (không bao gồm vốn các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia và vốn ODA, vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài).

Mức vốn ngân sách Trung ương còn lại được phân bổ cho các Bộ, cơ quan Trung ương theo ngành, lĩnh vực. Các Bộ, cơ quan Trung ương chịu trách nhiệm phân bổ cụ thể cho các chương trình, dự án theo đúng quy định của pháp luật và theo các nguyên tắc, thứ tự ưu tiên quy định tại Nghị quyết này.

Quy định mới về phí duy trì hệ thống kiểm tra chứng thư chữ ký số

Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 13/2025/TT-BTC về quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí dịch vụ duy trì hệ thống kiểm tra trạng thái chứng thư chữ ký số. Thông tư có hiệu lực từ ngày 10/4/2025.

Theo đó, đối tượng nộp phí, người nộp phí là các tổ chức có giấy phép kinh doanh dịch vụ tin cậy. Đối với giấy phép chứng thực chữ ký số công cộng còn hiệu lực theo Luật Giao dịch điện tử 51/2005/QH11, tổ chức được cấp phép vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nộp phí.

Advertisement

Mức thu phí dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng là 3.000 đồng/tháng/chứng thư chữ ký số cấp cho tổ chức, doanh nghiệp; dịch vụ cấp dấu thời gian, chứng thực thông điệp dữ liệu là 4.200.000 đồng/tháng/chứng thư chữ ký số cấp cho tổ chức cung cấp dịch vụ tin cậy.

Thời gian tính phí từ tháng chứng thư có hiệu lực đến tháng trước khi hết hạn, bị tạm dừng hoặc thu hồi.

Về quản lý và sử dụng phí, tổ chức thu phí được giữ lại 85% để trang trải chi phí hoạt động, nộp 15% vào ngân sách nhà nước. Nếu tổ chức thu phí là cơ quan nhà nước không được khoán chi, toàn bộ số phí thu được sẽ nộp ngân sách.

Quản lý kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh bền vững

Thông tư số 09/2025/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn cơ chế quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện “Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân kinh doanh bền vững giai đoạn 2022 – 2025” có hiệu lực từ ngày 20/4/2025.

Thông tư 09/2025/TT-BTC quy định các nội dung chi nhằm phát triển hệ sinh thái hỗ trợ kinh doanh bền vững, bao gồm: Xây dựng tài liệu về kinh doanh bền vững; kết nối doanh nghiệp với tổ chức tín dụng, nhà đầu tư; chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn về kinh doanh bền vững; bồi dưỡng nâng cao nhận thức; xây dựng mạng lưới chuyên gia tư vấn để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững.

Advertisement

Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh bền vững theo Chương trình 167 và quy định tại Nghị định số 80/2021/NĐ-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm xác định nội dung và đối tượng hỗ trợ theo đúng quy định. Việc xác định chi phí, kinh phí hỗ trợ và cơ chế hỗ trợ thực hiện theo Thông tư số 52/2023/TT-BTC. Mức hỗ trợ ngân sách cho từng nội dung áp dụng theo định mức cao nhất quy định tại Nghị định số 80/2021/NĐ-CP.

Nguồn: TTXVN

Đọc tiếp

Chuyển động xanh

Thị trường carbon Việt Nam sẽ giao dịch 2 loại hàng hóa chính

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Nghị định hướng dẫn việc tổ chức và vận hành thị trường sàn giao dịch carbon. Theo đó, 2 loại hàng hóa chủ lực sẽ được giao dịch gồm: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon.

Dự thảo quy định rõ, hàng hóa giao dịch trên sàn carbon bao gồm: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính, được phân bổ cho các cơ sở nằm trong danh mục phải kiểm kê khí nhà kính theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và tín chỉ carbon, được xác nhận từ các chương trình, dự án trong nước hoặc quốc tế, như cơ chế phát triển sạch (CDM), cơ chế tín chỉ chung (JCM) và cơ chế trao đổi theo điều 6 của thỏa thuận Paris.

Cả hai loại hàng hóa này trước khi được đưa lên giao dịch trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội đều phải được xác nhận và ghi nhận trên hệ thống đăng ký quốc gia do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý.

Việc xây dựng sàn giao dịch carbon là bước cụ thể hóa Luật Bảo vệ môi trường, đồng thời triển khai Đề án thành lập và phát triển thị trường carbon trong nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 232/QĐ-TTg ngày 21/1/2025.

Advertisement

Dự thảo nhấn mạnh: Giao dịch trên thị trường carbon phải tuân thủ nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch, đồng thời đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia. Các tổ chức, cá nhân khi tham gia giao dịch phải tự tìm hiểu quy định pháp luật, thông tin hàng hóa và chịu trách nhiệm với quyết định mua – bán của mình.

Các giao dịch sẽ được thực hiện theo phương thức thỏa thuận, tức là các bên tự đàm phán và nhập lệnh trên hệ thống. Có 2 hình thức: Thỏa thuận điện tử (nhập lệnh trực tiếp trên hệ thống) và thỏa thuận thông thường (thỏa thuận bên ngoài rồi báo cáo lên hệ thống để xác nhận).

Việc áp dụng phương thức thỏa thuận được xem là phù hợp với giai đoạn đầu của thị trường, khi số lượng chủ thể tham gia còn hạn chế, thanh khoản chưa cao và đặc điểm hàng hóa, đặc biệt là tín chỉ carbon chưa được chuẩn hóa. Đây cũng là phương thức đang được áp dụng trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ và công cụ nợ Chính phủ.

Để thực hiện giao dịch, các cơ sở phát thải được phân bổ hạn ngạch sẽ mở tài khoản tại thành viên giao dịch. Các thành viên này sẽ thực hiện giao dịch thay mặt khách hàng, báo cáo kết quả và cung cấp sao kê giao dịch định kỳ hoặc theo yêu cầu.

Ngay sau khi giao dịch được xác lập, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội sẽ chuyển thông tin kết quả cho Tổng Công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) để thực hiện thanh toán theo cơ chế “tức thời theo từng giao dịch”, thay vì thông qua đối tác bù trừ trung tâm như thị trường chứng khoán.

Advertisement

Các giao dịch sẽ được thanh toán ngay trong ngày, thông qua ngân hàng thanh toán là các ngân hàng thương mại được Bộ Tài chính phê duyệt. Thành viên lưu ký phải mở tài khoản tiền tại ngân hàng này để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. VSDC sẽ đối chiếu thông tin, phong tỏa hàng hóa, xác nhận giao dịch hợp lệ và gửi yêu cầu thanh toán đến ngân hàng.

Dự thảo cũng đề xuất Bộ Tài chính lựa chọn một số ngân hàng thương mại làm ngân hàng thanh toán theo từng thời kỳ, tùy theo quy mô thị trường, tránh đầu tư dư thừa về hạ tầng công nghệ thông tin khi thị trường còn nhỏ.

Việc đưa sàn giao dịch carbon đi vào vận hành thí điểm là một bước tiến quan trọng trong lộ trình xây dựng thị trường carbon tại Việt Nam, một trong những công cụ kinh tế chủ lực để giảm phát thải, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và trung hòa carbon vào năm 2050 theo cam kết tại COP26.

Dù mới ở giai đoạn đầu, nhưng khuôn khổ pháp lý đang dần được hoàn thiện, với sự vào cuộc của nhiều bộ ngành liên quan. Khi vận hành ổn định, thị trường này sẽ mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp có công nghệ sạch, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi xanh trong sản xuất – kinh doanh tại Việt Nam.

Nguồn: DNSG

Advertisement

Đọc tiếp

Chuyển động xanh

Việt kiều mua nhà đất cần thủ tục gì?

Luật sư Nguyễn Văn Hậu

Việt kiều được hiểu là công dân Việt Nam đang cư trú và sinh sống ở ngoài lãnh thổ nước Việt Nam.

Họ có thể vẫn đang còn quốc tịch Việt Nam và/hoặc đang có quốc tịch của quốc gia họ đang sinh sống, nhưng gốc là người Việt.

Việt kiều – tức “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam”, và “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài”.

Theo luật Đất đai 2024, luật Kinh doanh bất động sản 2023, luật Nhà ở 2023 (đều có hiệu lực thi hành từ 1.1.2025), Việt kiều được phép đầu tư, mua nhà đất tại Việt Nam. Đây là những quy định mới so với trước đây.

Advertisement

Vì vậy, để sở hữu nhà đất tại Việt Nam, Việt kiều cần làm những thủ tục gì?

Luật sư Nguyễn Văn Hậu (Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.HCM) cho hay, điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, theo điều 8 luật Nhà ở thì phải có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ chứng minh tư cách Việt kiều hoặc người gốc Việt, và được phép nhập cảnh vào Việt Nam tại thời điểm mua bán, giao dịch.

Đối với người gốc Việt không còn quốc tịch Việt Nam cần có hộ chiếu nước ngoài hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế, kèm theo giấy tờ xác nhận là người gốc Việt Nam.

Để được cấp giấy xác nhận là người gốc Việt, hồ sơ cần chuẩn bị bao gồm giấy tờ nhân thân và giấy tờ chứng minh nguồn gốc Việt Nam.

Trong trường hợp không có giấy tờ trực tiếp, người gốc Việt có thể nộp giấy tờ do chế độ cũ cấp, giấy bảo lãnh của hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài, hoặc giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp có ghi quốc tịch Việt Nam.

Advertisement

Hồ sơ có thể nộp tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hoặc tại Bộ Ngoại giao, Sở Tư pháp khi đã về Việt Nam.

Theo quy định tại luật Đất đai, từ 1.8.2024, quyền mua đất của Việt Kiều chỉ hạn chế đối với “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài”.

Còn “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam” hoàn toàn có thể được nhận quyền sử dụng đất, được trực tiếp tham gia giao dịch bất động sản trong nước… từ 1.8.2024 mà không cần phải nhờ người thân trong nước đứng tên thực hiện giao dịch chuyển nhượng.

Còn người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền thuê mua nhà ở và nhận quyền sử dụng đất thông qua các dự án phát triển nhà ở. Luật Đất đai 2024 cũng cho phép được quyền thừa kế quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất khác theo quy định.

Luật Đất đai 2024 vẫn giữ nguyên quy định liên quan đến tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, và khu công nghệ cao (khoản c Điều 28 luật Đất đai 2024).

Advertisement

Khoản d Điều 28 luật Đất đai 2024 cũng quy định người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ được thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê đất.

Nguồn: Thanh Niên

Đọc tiếp

Được quan tâm