Connect with us

Chuyển động xanh

Biến áp lực chuyển đổi xanh thành cơ hội

Chuyển đổi xanh, chuyển đổi số mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận và đáp ứng yêu cầu của các thị trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức, trong đó có vấn đề tài chính cho các dự án chuyển đổi xanh…

Áp lực chuyển đổi xanh thúc đẩy các doanh nghiệp phải triển khai nhiều mô hình kinh doanh sáng tạo, áp dụng công nghệ cắt giảm chi phí, giảm tiêu thụ năng lượng, đồng thời nâng cao giá trị chuỗi cung ứng. Qua đó, doanh nghiệp không chỉ đáp ứng được những đòi hỏi mới từ các đối tác thương mại- đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh, phát triển bền vững…, mà còn góp phần chung tay với các bộ, ngành, địa phương thực hiện cam kết NetZero tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26).

Chuyển đổi xanh và chuyển đổi số là một yêu cầu tất yếu hiện nay với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sang các thị trường lớn như châu Âu. Bởi các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam càng ngày càng quan tâm nhiều đến các phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu, an toàn cho người tiêu dùng…

Những quy định này buộc các doanh nghiệp phải đầu tư vào công nghệ xanh, truy xuất nguồn gốc và giảm phát thải để tránh các loại thuế hay các biện pháp trừng phạt liên quan. Khi các sản phẩm không đáp ứng quy định tiêu chuẩn của EU sẽ có nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng của các thị trường này.

Advertisement

Chuyển đổi xanh là áp lực và đòi hỏi tất yếu

Hiện nay, châu Âu và Mỹ là hai thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, đồng thời cũng có nhiều quy định mới liên quan đến phát triển bền vững, ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp Việt Nam.

Tại thị trường EU, hai quy định quan trọng liên quan đến yếu tố xanh là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) và Quy định chống phá rừng (EUDR) đang tác động đến nhiều ngành. Bên cạnh đó, các yêu cầu về kinh tế tuần hoàn và kiểm soát chuỗi cung ứng từ trang trại đến bàn ăn cũng đang ngày càng được siết chặt.

Chia sẻ điều này tại tọa đàm “Chuyển đổi xanh: Từ áp lực đến cơ hội kinh doanh” mới đây, đại diện Viện Nông nghiệp và Môi trường (trước đây là Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường) nhấn mạnh đến những thách thức liên quan CBAM, quy định chống phá rừng; Chỉ thị báo cáo phát triển bền vững và Chỉ thị về thẩm định tính bền vững của doanh nghiệp… có thể tác động đến việc xuất khẩu sang thị trường châu Âu.

Vì vậy, chuyển đổi xanh là một yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện, nếu không sẽ có thể bị loại khỏi thị trường.

Tuy nhiên, thuế carbon và các quy định thương mại xanh không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, dễ dàng tiếp cận và mở rộng thị trường.

Advertisement

Theo các chuyên gia, chuyển đổi xanh ở Việt Nam vẫn đang dừng ở câu chuyện của các doanh nghiệp lớn và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài.

Trong khi đó, với thực trạng hiện nay khi khoảng 90% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), thì SME gặp nhiều khó khăn trong quá trình xanh hóa, từ tài chính, nguồn nhân lực đến công nghệ và nhận thức. Một trong những nguyên nhân chính là thiếu cơ chế rõ ràng, khiến doanh nghiệp chưa biết nên đầu tư vào lĩnh vực nào, lựa chọn công nghệ nào hay có thể vay vốn từ đâu để thực hiện chuyển đổi.

Doanh nghiệp vướng tài chính để thực hiện chuyển đổi xanh

Ông Đinh Hồng Kỳ, Phó chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh (Huba), cho rằng chuyển đổi xanh còn nhiều thách thức mà một trong số rào cản với doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam khi thực hiện dự án xanh là tài chính.

Nói về những thách thức khi chuyển đổi xanh, ông Kỳ dẫn ra báo cáo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho hay 65% doanh nghiệp gặp vướng mắc tài chính để thực hiện các dự án xanh.

Mặc dù đã có các cơ chế tài chính hỗ trợ nhưng việc đưa nguồn vốn này đến đối tượng vẫn là một bài toán khó. Bên cạnh đó, nhân lực cũng là một yếu tố đáng lo ngại. Chỉ có khoảng 12% doanh nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh sở hữu đội ngũ nhân sự có chuyên môn về ESG (môi trường, xã hội và quản trị).

Advertisement

Công nghệ cũng là một thách thức quan trọng, đặc biệt trong các ngành có mức độ phát thải cao như dệt may. Hiện tại, khoảng 40% thiết bị trong ngành này đã lạc hậu, khiến việc giảm phát thải carbon trở thành một vấn đề nan giải. Trong bối cảnh Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều đối thủ trên thị trường quốc tế, việc nâng cấp công nghệ và đáp ứng các tiêu chuẩn xanh là bắt buộc.

Ngoài ra, nhận thức của doanh nghiệp cũng là một rào cản lớn. Không phải doanh nghiệp nào cũng hiểu rõ tầm quan trọng của chuyển đổi xanh và sẵn sàng đầu tư dài hạn cho quá trình này.

Nhìn nhận vấn đề tiêu chí xanh cho các dự án, ông Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam, nêu thực tế rằng nếu có tiêu chí xanh cụ thể cho từng ngành sẽ tạo thuận lợi và dễ dàng cho các ngành, cơ sở sản xuất nắm bắt để xác định hướng đầu tư vào sản phẩm gì, công nghệ nào, vay ở đâu để phát triển xanh. Thậm chí, nhiều ngân hàng còn lúng túng khi cấp vốn cho các dự án thân thiện với môi trường vì chưa có tiêu chí xanh cụ thể. Do đó, Việt Nam cần ban hành tiêu chí xanh cụ thể cho từng ngành, ông Tùng nhấn mạnh.

Bên cạnh vấn đề tài chính, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa thực sự hiểu rõ chuyển đổi xanh và làm thế nào để áp dụng vào thực tế. Do đó, cần tăng cường đào tạo, nâng cao nhận thức về xanh, chuyển đổi xanh và làm thế nào để ứng dụng và phát triển xanh trong doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp cần mạnh dạn chuyển đổi số để chuyển đổi xanh bởi đây là mối quan hệ mang tính ràng buộc. Các doanh nghiệp phải tự kiểm kê, rà soát các hoạt động sản xuất của mình để đảm bảo tuân thủ các quy chuẩn, giảm thiểu phát thải, tăng cường những sản phẩm công nghệ xanh.

Advertisement

“Chỉ có qua chuyển đổi số, doanh nghiệp mới có thể thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh. Bên cạnh những thách thức, chuyển đổi xanh cũng mở ra rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp”, ông Tùng cho biết.

Các chuyên gia cũng nhấn mạnh việc hỗ trợ về vốn và công nghệ cho phát triển, chuyển đổi xanh. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần rà soát hoạt động sản xuất, cắt giảm công nghệ lạc hậu, tối ưu hóa quy trình để giảm phát thải. Việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý năng lượng, chuỗi cung ứng và sản xuất thông minh sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả vận hành, tiết kiệm chi phí và đáp ứng tốt hơn các tiêu chuẩn quốc tế.

Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, Việt Nam cần sớm xây dựng cơ chế xanh riêng cho từng ngành, giúp doanh nghiệp có định hướng rõ ràng về tiêu chuẩn, công nghệ, nguồn vốn và các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước trong chuyển đổi xanh.

Các chuyên gia cho rằng cần đặt ra những mục tiêu cụ thể cho từng ngành, nghề và lĩnh vực, đồng thời có chính sách dài hạn để bảo đảm phát triển bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050.

Việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, hỗ trợ đào tạo nhân lực và khuyến khích đổi mới công nghệ sẽ là chìa khóa giúp doanh nghiệp Việt Nam không chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn xanh mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Advertisement

Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh và hướng tới mục tiêu Net Zero, cần có một cách tiếp cận đa chiều nhằm hỗ trợ nền kinh tế dịch chuyển từ mô hình truyền thống sang nền kinh tế xanh.

Theo các chuyên gia, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp áp dụng công nghệ xanh và thực hành bền vững. Việc ban hành hướng dẫn rõ ràng, cung cấp các ưu đãi và xây dựng môi trường pháp lý ổn định sẽ giúp giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, đồng thời thúc đẩy đầu tư vào năng lượng tái tạo, quản lý chất thải và hạ tầng xanh.

Chuyển đổi xanh cũng cần được đồng bộ với quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Việc tích hợp công nghệ số vào các sáng kiến xanh sẽ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa hoạt động, nâng cao hiệu quả và giảm lượng khí thải carbon. Điều này đòi hỏi đầu tư vào hạ tầng bền vững cũng như các công nghệ tiên tiến, hệ thống tiết kiệm năng lượng và sản xuất thân thiện với môi trường.

Ngoài ra, để bảo đảm nguồn vốn cho quá trình này, các tổ chức tài chính cần tiếp tục mở rộng các kênh tài trợ xanh, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các giải pháp bền vững và năng lượng tái tạo. Việc thúc đẩy các hình thức huy động vốn như trái phiếu xanh và tín dụng ESG sẽ giúp tăng cường khả năng tiếp cận nguồn lực tài chính cho các doanh nghiệp, từ đó đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh trên phạm vi toàn quốc.

Danh mục phân loại xanh và tài chính xanh

Đại diện Ngân hàng BIDV cho biết BIDV đang triển khai nhiều sáng kiến để hiện thực hóa chiến lược này, bao gồm xây dựng phòng giao dịch xanh, chi nhánh xanh gắn với quản trị rủi ro môi trường – xã hội, đồng thời ưu tiên tài trợ cho các dự án trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, giao thông bền vững, xử lý rác thải và nước thải.

Advertisement

Tính đến hết năm 2024, BIDV là tổ chức tín dụng cung cấp tín dụng xanh lớn nhất tại Việt Nam với tổng dư nợ đạt khoảng 81.000 tỷ đồng. Ngân hàng này đang triển khai các chính sách nhằm giảm dần mức tài trợ cho những ngành có phát thải carbon cao như sắt thép, xi măng, phân bón, đồng thời tăng cường hỗ trợ các dự án xanh với các ưu đãi về lãi suất…

Nhìn nhận vấn đề tiêu chí xanh cho các dự án, ông Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam, nêu thực tế rằng nếu có tiêu chí xanh cụ thể cho từng ngành sẽ tạo thuận lợi và dễ dàng cho các ngành, cơ sở sản xuất nắm bắt để xác định hướng đầu tư vào sản phẩm gì, công nghệ nào, vay ở đâu để phát triển xanh. Thậm chí, nhiều ngân hàng còn lúng túng khi cấp vốn cho các dự án thân thiện với môi trường vì chưa có tiêu chí xanh cụ thể. Do đó, Việt Nam cần ban hành tiêu chí xanh cụ thể cho từng ngành, ông Tùng nhấn mạnh.

Bên cạnh vấn đề tài chính, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa thực sự hiểu rõ chuyển đổi xanh và làm thế nào để áp dụng vào thực tế. Do đó, cần tăng cường đào tạo, nâng cao nhận thức về xanh, chuyển đổi xanh và làm thế nào để ứng dụng và phát triển xanh trong doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp cần mạnh dạn chuyển đổi số để chuyển đổi xanh bởi đây là mối quan hệ mang tính ràng buộc. Các doanh nghiệp phải tự kiểm kê, rà soát các hoạt động sản xuất của mình để đảm bảo tuân thủ các quy chuẩn, giảm thiểu phát thải, tăng cường những sản phẩm công nghệ xanh.

“Chỉ có qua chuyển đổi số, doanh nghiệp mới có thể thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh. Bên cạnh những thách thức, chuyển đổi xanh cũng mở ra rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp”, ông Tùng cho biết.

Advertisement

Các chuyên gia cũng nhấn mạnh việc hỗ trợ về vốn và công nghệ cho phát triển, chuyển đổi xanh. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần rà soát hoạt động sản xuất, cắt giảm công nghệ lạc hậu, tối ưu hóa quy trình để giảm phát thải. Việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý năng lượng, chuỗi cung ứng và sản xuất thông minh sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả vận hành, tiết kiệm chi phí và đáp ứng tốt hơn các tiêu chuẩn quốc tế.

Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, Việt Nam cần sớm xây dựng cơ chế xanh riêng cho từng ngành, giúp doanh nghiệp có định hướng rõ ràng về tiêu chuẩn, công nghệ, nguồn vốn và các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước trong chuyển đổi xanh.

Các chuyên gia cho rằng cần đặt ra những mục tiêu cụ thể cho từng ngành, nghề và lĩnh vực, đồng thời có chính sách dài hạn để bảo đảm phát triển bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050.

Việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, hỗ trợ đào tạo nhân lực và khuyến khích đổi mới công nghệ sẽ là chìa khóa giúp doanh nghiệp Việt Nam không chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn xanh mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh và hướng tới mục tiêu Net Zero, cần có một cách tiếp cận đa chiều nhằm hỗ trợ nền kinh tế dịch chuyển từ mô hình truyền thống sang nền kinh tế xanh.

Advertisement

Theo các chuyên gia, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp áp dụng công nghệ xanh và thực hành bền vững. Việc ban hành hướng dẫn rõ ràng, cung cấp các ưu đãi và xây dựng môi trường pháp lý ổn định sẽ giúp giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, đồng thời thúc đẩy đầu tư vào năng lượng tái tạo, quản lý chất thải và hạ tầng xanh.

Chuyển đổi xanh cũng cần được đồng bộ với quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Việc tích hợp công nghệ số vào các sáng kiến xanh sẽ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa hoạt động, nâng cao hiệu quả và giảm lượng khí thải carbon. Điều này đòi hỏi đầu tư vào hạ tầng bền vững cũng như các công nghệ tiên tiến, hệ thống tiết kiệm năng lượng và sản xuất thân thiện với môi trường.

Ngoài ra, để bảo đảm nguồn vốn cho quá trình này, các tổ chức tài chính cần tiếp tục mở rộng các kênh tài trợ xanh, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các giải pháp bền vững và năng lượng tái tạo. Việc thúc đẩy các hình thức huy động vốn như trái phiếu xanh và tín dụng ESG sẽ giúp tăng cường khả năng tiếp cận nguồn lực tài chính cho các doanh nghiệp, từ đó đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh trên phạm vi toàn quốc.

Danh mục phân loại xanh và tài chính xanh

Đại diện Ngân hàng BIDV cho biết BIDV đang triển khai nhiều sáng kiến để hiện thực hóa chiến lược này, bao gồm xây dựng phòng giao dịch xanh, chi nhánh xanh gắn với quản trị rủi ro môi trường – xã hội, đồng thời ưu tiên tài trợ cho các dự án trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, giao thông bền vững, xử lý rác thải và nước thải.

Tính đến hết năm 2024, BIDV là tổ chức tín dụng cung cấp tín dụng xanh lớn nhất tại Việt Nam với tổng dư nợ đạt khoảng 81.000 tỷ đồng. Ngân hàng này đang triển khai các chính sách nhằm giảm dần mức tài trợ cho những ngành có phát thải carbon cao như sắt thép, xi măng, phân bón, đồng thời tăng cường hỗ trợ các dự án xanh với các ưu đãi về lãi suất…

Advertisement

Nguồn: VnEconomy

Continue Reading
Advertisement
Bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyển động xanh

Những chính sách nổi bật liên quan đến kinh tế có hiệu lực từ tháng 4/2025

Thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất.

Từ tháng 4/2025, nhiều chính sách mới liên quan đến lĩnh vực kinh tế có hiệu lực, trong đó nổi bật là thí điểm dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất, phân bổ vốn đầu tư công, quản lý kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh bền vững…

Thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại

Ngày 30/11/2024, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất. Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 1/4/2025.

Theo đó, tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 171/2024/QH15 nêu rõ, tổ chức kinh doanh bất động sản được nhận chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để thực hiện dự án thí điểm phải được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua.

Các dự án thí điểm phải áp ứng điều kiện như phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị; phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án phù hợp với chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở của địa phương đã được phê duyệt.

Các tổ chức kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản, đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Advertisement

Riêng trường hợp sử dụng diện tích đất quốc phòng, đất an ninh đã được quy hoạch đưa ra khỏi đất quốc phòng, đất an ninh để thực hiện dự án thí điểm thì phải đáp ứng các điều kiện trên và có văn bản chấp thuận của Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ Công an đối với đất an ninh.

Quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước 2026 – 2030

Nghị quyết số 70/2025/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2026 – 2030. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2025.

Theo Nghị quyết, việc phân bổ vốn phải bảo đảm tập trung, hiệu quả, không dàn trải, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội quốc gia. Nguyên tắc phân bổ gồm: Tuân thủ Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước; tăng cường huy động vốn ngoài ngân sách, giảm các thủ tục hành chính; ưu tiên các dự án quan trọng quốc gia, các công trình hạ tầng giao thông, kết nối vùng, chuyển đổi số, năng lượng, an ninh nguồn nước; đảm bảo tính công khai, minh bạch trong phân bố.

Thứ tự phân bổ vốn được xác định như sau:

Dự án đầu tư công khẩn cấp.

Advertisement

Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia.

Hoàn trả vốn ứng trước, thanh toán nợ đống xây dựng.

Dự án hoàn thành nhưng chưa được bố trí đủ vốn.

Chương trình sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi quốc tế.

Dự án PPP theo quy định về đầu tư đối tác công tư.

Advertisement

Nghị quyết cũng quy định các tiêu chí và định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương, vốn địa phương, vốn trong nước và vốn nước ngoài giai đoạn 2026 – 2030. Theo đó, các địa phương vùng miền núi, biên giới, hải đảo sẽ được ưu tiên phân bố vốn để thu hẹp khoảng cách phát triển.

Về định mức phân bổ vốn giai đoạn 2026 – 2030, sẽ dành tối đa không quá 30% vốn ngân sách Trung ương để bổ sung có mục tiêu cho địa phương và được phân bổ theo ngành, lĩnh vực (không bao gồm vốn các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia và vốn ODA, vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài).

Mức vốn ngân sách Trung ương còn lại được phân bổ cho các Bộ, cơ quan Trung ương theo ngành, lĩnh vực. Các Bộ, cơ quan Trung ương chịu trách nhiệm phân bổ cụ thể cho các chương trình, dự án theo đúng quy định của pháp luật và theo các nguyên tắc, thứ tự ưu tiên quy định tại Nghị quyết này.

Quy định mới về phí duy trì hệ thống kiểm tra chứng thư chữ ký số

Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 13/2025/TT-BTC về quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí dịch vụ duy trì hệ thống kiểm tra trạng thái chứng thư chữ ký số. Thông tư có hiệu lực từ ngày 10/4/2025.

Theo đó, đối tượng nộp phí, người nộp phí là các tổ chức có giấy phép kinh doanh dịch vụ tin cậy. Đối với giấy phép chứng thực chữ ký số công cộng còn hiệu lực theo Luật Giao dịch điện tử 51/2005/QH11, tổ chức được cấp phép vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nộp phí.

Advertisement

Mức thu phí dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng là 3.000 đồng/tháng/chứng thư chữ ký số cấp cho tổ chức, doanh nghiệp; dịch vụ cấp dấu thời gian, chứng thực thông điệp dữ liệu là 4.200.000 đồng/tháng/chứng thư chữ ký số cấp cho tổ chức cung cấp dịch vụ tin cậy.

Thời gian tính phí từ tháng chứng thư có hiệu lực đến tháng trước khi hết hạn, bị tạm dừng hoặc thu hồi.

Về quản lý và sử dụng phí, tổ chức thu phí được giữ lại 85% để trang trải chi phí hoạt động, nộp 15% vào ngân sách nhà nước. Nếu tổ chức thu phí là cơ quan nhà nước không được khoán chi, toàn bộ số phí thu được sẽ nộp ngân sách.

Quản lý kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh bền vững

Thông tư số 09/2025/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn cơ chế quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện “Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân kinh doanh bền vững giai đoạn 2022 – 2025” có hiệu lực từ ngày 20/4/2025.

Thông tư 09/2025/TT-BTC quy định các nội dung chi nhằm phát triển hệ sinh thái hỗ trợ kinh doanh bền vững, bao gồm: Xây dựng tài liệu về kinh doanh bền vững; kết nối doanh nghiệp với tổ chức tín dụng, nhà đầu tư; chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn về kinh doanh bền vững; bồi dưỡng nâng cao nhận thức; xây dựng mạng lưới chuyên gia tư vấn để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững.

Advertisement

Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh bền vững theo Chương trình 167 và quy định tại Nghị định số 80/2021/NĐ-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm xác định nội dung và đối tượng hỗ trợ theo đúng quy định. Việc xác định chi phí, kinh phí hỗ trợ và cơ chế hỗ trợ thực hiện theo Thông tư số 52/2023/TT-BTC. Mức hỗ trợ ngân sách cho từng nội dung áp dụng theo định mức cao nhất quy định tại Nghị định số 80/2021/NĐ-CP.

Nguồn: TTXVN

Đọc tiếp

Chuyển động xanh

Thị trường carbon Việt Nam sẽ giao dịch 2 loại hàng hóa chính

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Nghị định hướng dẫn việc tổ chức và vận hành thị trường sàn giao dịch carbon. Theo đó, 2 loại hàng hóa chủ lực sẽ được giao dịch gồm: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon.

Dự thảo quy định rõ, hàng hóa giao dịch trên sàn carbon bao gồm: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính, được phân bổ cho các cơ sở nằm trong danh mục phải kiểm kê khí nhà kính theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và tín chỉ carbon, được xác nhận từ các chương trình, dự án trong nước hoặc quốc tế, như cơ chế phát triển sạch (CDM), cơ chế tín chỉ chung (JCM) và cơ chế trao đổi theo điều 6 của thỏa thuận Paris.

Cả hai loại hàng hóa này trước khi được đưa lên giao dịch trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội đều phải được xác nhận và ghi nhận trên hệ thống đăng ký quốc gia do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý.

Việc xây dựng sàn giao dịch carbon là bước cụ thể hóa Luật Bảo vệ môi trường, đồng thời triển khai Đề án thành lập và phát triển thị trường carbon trong nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 232/QĐ-TTg ngày 21/1/2025.

Advertisement

Dự thảo nhấn mạnh: Giao dịch trên thị trường carbon phải tuân thủ nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch, đồng thời đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia. Các tổ chức, cá nhân khi tham gia giao dịch phải tự tìm hiểu quy định pháp luật, thông tin hàng hóa và chịu trách nhiệm với quyết định mua – bán của mình.

Các giao dịch sẽ được thực hiện theo phương thức thỏa thuận, tức là các bên tự đàm phán và nhập lệnh trên hệ thống. Có 2 hình thức: Thỏa thuận điện tử (nhập lệnh trực tiếp trên hệ thống) và thỏa thuận thông thường (thỏa thuận bên ngoài rồi báo cáo lên hệ thống để xác nhận).

Việc áp dụng phương thức thỏa thuận được xem là phù hợp với giai đoạn đầu của thị trường, khi số lượng chủ thể tham gia còn hạn chế, thanh khoản chưa cao và đặc điểm hàng hóa, đặc biệt là tín chỉ carbon chưa được chuẩn hóa. Đây cũng là phương thức đang được áp dụng trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ và công cụ nợ Chính phủ.

Để thực hiện giao dịch, các cơ sở phát thải được phân bổ hạn ngạch sẽ mở tài khoản tại thành viên giao dịch. Các thành viên này sẽ thực hiện giao dịch thay mặt khách hàng, báo cáo kết quả và cung cấp sao kê giao dịch định kỳ hoặc theo yêu cầu.

Ngay sau khi giao dịch được xác lập, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội sẽ chuyển thông tin kết quả cho Tổng Công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) để thực hiện thanh toán theo cơ chế “tức thời theo từng giao dịch”, thay vì thông qua đối tác bù trừ trung tâm như thị trường chứng khoán.

Advertisement

Các giao dịch sẽ được thanh toán ngay trong ngày, thông qua ngân hàng thanh toán là các ngân hàng thương mại được Bộ Tài chính phê duyệt. Thành viên lưu ký phải mở tài khoản tiền tại ngân hàng này để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. VSDC sẽ đối chiếu thông tin, phong tỏa hàng hóa, xác nhận giao dịch hợp lệ và gửi yêu cầu thanh toán đến ngân hàng.

Dự thảo cũng đề xuất Bộ Tài chính lựa chọn một số ngân hàng thương mại làm ngân hàng thanh toán theo từng thời kỳ, tùy theo quy mô thị trường, tránh đầu tư dư thừa về hạ tầng công nghệ thông tin khi thị trường còn nhỏ.

Việc đưa sàn giao dịch carbon đi vào vận hành thí điểm là một bước tiến quan trọng trong lộ trình xây dựng thị trường carbon tại Việt Nam, một trong những công cụ kinh tế chủ lực để giảm phát thải, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và trung hòa carbon vào năm 2050 theo cam kết tại COP26.

Dù mới ở giai đoạn đầu, nhưng khuôn khổ pháp lý đang dần được hoàn thiện, với sự vào cuộc của nhiều bộ ngành liên quan. Khi vận hành ổn định, thị trường này sẽ mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp có công nghệ sạch, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi xanh trong sản xuất – kinh doanh tại Việt Nam.

Nguồn: DNSG

Advertisement

Đọc tiếp

Chuyển động xanh

Việt kiều mua nhà đất cần thủ tục gì?

Luật sư Nguyễn Văn Hậu

Việt kiều được hiểu là công dân Việt Nam đang cư trú và sinh sống ở ngoài lãnh thổ nước Việt Nam.

Họ có thể vẫn đang còn quốc tịch Việt Nam và/hoặc đang có quốc tịch của quốc gia họ đang sinh sống, nhưng gốc là người Việt.

Việt kiều – tức “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam”, và “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài”.

Theo luật Đất đai 2024, luật Kinh doanh bất động sản 2023, luật Nhà ở 2023 (đều có hiệu lực thi hành từ 1.1.2025), Việt kiều được phép đầu tư, mua nhà đất tại Việt Nam. Đây là những quy định mới so với trước đây.

Advertisement

Vì vậy, để sở hữu nhà đất tại Việt Nam, Việt kiều cần làm những thủ tục gì?

Luật sư Nguyễn Văn Hậu (Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.HCM) cho hay, điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, theo điều 8 luật Nhà ở thì phải có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ chứng minh tư cách Việt kiều hoặc người gốc Việt, và được phép nhập cảnh vào Việt Nam tại thời điểm mua bán, giao dịch.

Đối với người gốc Việt không còn quốc tịch Việt Nam cần có hộ chiếu nước ngoài hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế, kèm theo giấy tờ xác nhận là người gốc Việt Nam.

Để được cấp giấy xác nhận là người gốc Việt, hồ sơ cần chuẩn bị bao gồm giấy tờ nhân thân và giấy tờ chứng minh nguồn gốc Việt Nam.

Trong trường hợp không có giấy tờ trực tiếp, người gốc Việt có thể nộp giấy tờ do chế độ cũ cấp, giấy bảo lãnh của hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài, hoặc giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp có ghi quốc tịch Việt Nam.

Advertisement

Hồ sơ có thể nộp tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hoặc tại Bộ Ngoại giao, Sở Tư pháp khi đã về Việt Nam.

Theo quy định tại luật Đất đai, từ 1.8.2024, quyền mua đất của Việt Kiều chỉ hạn chế đối với “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài”.

Còn “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam” hoàn toàn có thể được nhận quyền sử dụng đất, được trực tiếp tham gia giao dịch bất động sản trong nước… từ 1.8.2024 mà không cần phải nhờ người thân trong nước đứng tên thực hiện giao dịch chuyển nhượng.

Còn người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền thuê mua nhà ở và nhận quyền sử dụng đất thông qua các dự án phát triển nhà ở. Luật Đất đai 2024 cũng cho phép được quyền thừa kế quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất khác theo quy định.

Luật Đất đai 2024 vẫn giữ nguyên quy định liên quan đến tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, và khu công nghệ cao (khoản c Điều 28 luật Đất đai 2024).

Advertisement

Khoản d Điều 28 luật Đất đai 2024 cũng quy định người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ được thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê đất.

Nguồn: Thanh Niên

Đọc tiếp

Được quan tâm